Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với con đường
lựa chọn chủ nghĩa xã hội, vì thấy rằng chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới
giải phóng được dân tộc, giải phóng con người. Từ đó, Người kiên trì sự lựa
chọn con đường kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đó là quyết định vô cùng sáng suốt, đã đem lại cho đất nước ta những
thắng lợi vẻ vang mà cả nhân loại tiến bộ đều thừa nhận.
Nhưng, trong thực tế, con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta lựa chọn chỉ mới
vượt qua được giai đoạn đầu, nghĩa là mới giải phóng được dân tộc. Khi bước
sang giai đoạn phát triển đất nước thống nhất theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội,
sự nghiệp cách mạng nước ta đã vấp ngay những khó khăn, thách thức. Trước những
yêu cầu mới của cách mạng, đến Đại hội đại hội toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã
kịp thời khởi xướng sự nghiệp đổi mới, đất nước khắc phục được những khủng
hoảng và phát triển nhanh chóng, song phải chấp nhận cơ chế thị trường với
những điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế theo xu hướng toàn cầu hóa. Thực tế
đang chứng minh rằng 30 năm đất nước đổi mới là một thắng lợi to lớn không thể
phủ nhận, nhưng đồng thời cũng đặt ra biết bao điều cần suy nghĩ, cần nghiên
cứu, cả về lý luận và tình hình thực tế.
Quả là, hiện nay đứng trước tình hình mới, thế giới đã bước vào thời kỳ
phát triển toàn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản vẫn tỏ ra thắng thế, chủ nghĩa xã hội
lại có hiện tượng thoái trào, thậm chí tan rã, liệu con đường lựa chọn của Hồ
Chí Minh và Đảng ta có đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước hay không,
rõ ràng đây vừa là thời cơ vừa là thách thức lớn đối với Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta. Song, có thể khẳng định nếu không tiếp tục sự lựa chọn phát triển đất
nước theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì có thể nói chủ nghĩa nhân văn
Hồ Chí Minh sẽ không còn giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn nữa. Do đó, cần
phải nghiêm túc tìm hiểu tình hình đất nước và bối cảnh thế giới nhằm rút ra
những bài học cần thiết không phải để từ bỏ con đường đã chọn mà là tìm lối ra
cho con đường phát triển chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng chính là phong
cách và bản lĩnh của cha ông ta mà Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu. Ở đây
chúng tôi muốn nêu những quan điểm khái quát cơ bản nhất nhằm đối chiếu thực
tiễn với quan điểm về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh.
Khi đề ra mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một mặt, Hồ Chí Minh không có suy nghĩ
không tưởng, duy ý chí; mặt khác,
Người không chờ chủ nghĩa xã hội tự khắc đến với những dân tộc kém phát triển
như dân tộc ta. Chính vì vậy, Người cố gắng vận dụng sáng tạo đồng thời phát
triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm cho mình một quan niệm mới và nhất là một
phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đất nước ta. Vậy quan niệm
của Hồ Chí Minh về một chủ nghĩa xã hội thích hợp với mỗi dân tộc là thế nào?
Nếu chỉ thấy quan niệm chung mà không thấy quan
niệm về chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh hiện nay khi đất nước đứng trước tình
hình mới về phát triển kinh tế thị trường toàn cầu hóa thì chúng ta sẽ không
thấy tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, chủ nghĩa nhân văn nói riêng, sẽ phát huy
và phát triển như thế nào. ở đây, chúng tôi chỉ nêu mấy quan điểm cơ bản về lý
luận mà không có điều kiện đi sâu về thực tiễn.
1. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội đương nhiên phải gắn với phát
triển kinh tế trên cơ sở phát triển một nền khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại mà hiện nay là công nghệ thông tin và nhiều lĩnh vực khoa học tiên tiến
đang thay đổi tận gốc phương thức sản xuất và lưu thông, thậm chí thay đổi cả
quan niệm về quản lý đất nước. Nhưng, đó là phát triển theo mục tiêu nào, nhằm
đạt yêu cầu gì… là vấn đề mỗi nước phải suy nghĩ. Riêng với nước ta, sau khi
khởi xướng sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã khẳng
định con đường phát triển và chấn hưng đất nước theo mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đó là một cách cụ thể hóa định hướng
xã hội chủ nghĩa, kiên trì với con đường đã chọn của Hồ Chí Minh và Đảng ta
trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường toàn cầu hóa hiện nay.
Song, nếu được cụ thể hóa hơn nữa con đường phát triển chủ nghĩa xã hội
theo chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh thì phải nói đến những tiêu chí cụ thể hơn,
rõ ràng hơn như thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, thu hẹp khoảng cách giữa nông
thôn và thành thị, giữa miền xuôi và các vùng sâu, vùng xa, và đặc biệt là “cần
phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”[1],
như Hồ Chí Minh căn dặn trong Di chúc của
Người.
Quan niệm về chủ nghĩa xã hội phù hợp với mỗi dân tộc đương nhiên phải căn
cứ vào sức mạnh văn hóa và ý chí nhân dân của dân tộc đó. Bởi lẽ, dù là sự lựa
chọn nào của lãnh tụ, cũng phải được nhân dân chấp nhận và thực hiện. Hồ Chí
Minh chỉ đúng khi Người đánh giá chính xác sức mạnh văn hóa và ý chí của nhân
dân nước mình. Trong một bài viết nhan đề Đông
Dương, sau khi phân tích những điều kiện địa lý, lịch sử của châu Á và Đông
Dương để chứng minh cho luận điểm nổi tiếng của mình rằng “chế độ cộng sản có
thể áp dụng được ở châu á nói chung và Đông Dương nói riêng”, Hồ Chí Minh dự
báo: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để
gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình
thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những
người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[2].
Điều dự báo ấy diễn ra vào đầu thế kỷ XX (năm 1921) giữa lúc chủ nghĩa thực dân
đang ngự trị khắp thế giới thì phải nói là một sự mẫn cảm thiên tài. Dự báo đó
không chỉ chứng tỏ Hồ Chí Minh tin rằng chủ nghĩa cộng sản có thể áp dụng được
ở các dân tộc thuộc địa như Việt Nam mà còn có niềm tin tuyệt đối vào sức mạnh
của văn hóa và ý chỉ của nhân dân nước mình.
Đương nhiên, điều đó còn xuất phát từ một quan niệm
về chủ nghĩa xã hội thích hợp với mỗi dân tộc. Đối với chúng ta, như trên đã nói
rõ quan niệm của Hồ Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là phải làm cho dân có ăn, có
mặc, có nhà ở và được học hành; chủ nghĩa xã hội phải đảm bảo cho dân được ăn
no, mặc đủ, được tự do và hạnh phúc. Mục đích của chủ nghĩa xã hội là không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động. Nếu không như vậy thì đối với nhân dân chẳng những chủ nghĩa xã
hội mà cả độc lập dân tộc cũng không có nghĩa lý gì. Cho nên, Hồ Chí Minh mới
nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì
tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc
lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[3].
Thiết tưởng, những điều Hồ Chí Minh nói như trên cũng đã thể hiện rõ quan niệm
của Người về chủ nghĩa xã hội thích hợp với mỗi dân tộc nói chung, với dân tộc
ta nói riêng.
Điều đó có nghĩa là chủ nghĩa xã hội vừa là tương lai xa, là viễn cảnh,
nhưng nó cũng rất thiết thực, rất gần gũi với mỗi người đang sống hôm nay, đang
cần có một cuộc sống sao cho xứng đáng với cuộc sống của một dân tộc độc lập,
tự do và nhất là có sự lãnh đạo sáng suốt của một Đảng cầm quyền do Hồ Chí Minh
sáng lập. Với quan niệm đó, chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh có thể
chưa thật hoàn thiện, chưa được như mong muốn của Mác, Ăngghen và Lênin, chưa
thực hiện được nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”… nhưng nó vẫn
đảm bảo cho con người một cuộc sống tương đối cho ra sống, được tự do và hạnh
phúc thật sự, đồng thời tạo điều kiện cho con người với tư cách là động lực, suy
nghĩ ngày càng hoàn thiện, ngày càng gần với chủ nghĩa xã hội hiện thực.
2. Vấn đề dân chủ trong xây dựng xã
hội chủ nghĩa
Sau quan điểm về việc nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của chủ nghĩa xã hội thích hợp với mỗi dân tộc, phải
nói đến quan điểm dân chủ của Hồ Chí
Minh cũng rất đặc biệt.
Có thể nói, quan niệm về dân chủ của
Hồ Chí Minh là thể hiện rõ nhất, tiêu biểu nhất chủ nghĩa nhân văn của Người.
Bởi lẽ, quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Hồ Chí Minh gắn liền với quan niệm về
dân chủ, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của chủ nghĩa xã hội. Không
thực hiện đúng quan niệm về dân chủ như Hồ Chí Minh đòi hỏi thì chắc chắn sẽ
không bao giời có chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, xét cho cùng, chỉ có nhân dân được
làm chủ thực sự mới đủ sức xây dựng được chủ nghĩa xã hội như họ mong muốn.
Vấn đề là phải hiểu cho đúng quan niệm về dân chủ,
phân biệt quan điểm dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh với quan điểm dân chủ có
trước, nhất là quan niệm dân chủ đang lưu hành hiện nay trong thế giới tư bản
của các chính khách nhân danh "nhà dân chủ" nhằm áp đặt quan niệm
"dân chủ"của họ đối với các nước kém phát triển.
Chúng ta biết rằng tư tưởng dân chủ không phải là mới, nó đã có quá trình
hình thành và phát triển lâu dài trong lịch sử nhân loại. Nếu nói đến nguồn gốc
sâu xa của ý tưởng dân chủ thì phải trở lại quan điểm “nước lấy dân làm gốc”
của Khổng Tử và Mạnh Tử. Chỉ nói ở phương Đông, từ trong xã hội phong kiến,
việc trị nước “lấy dân làm gốc” vẫn được xem là một tiêu chí lý tưởng. Đặc biệt
ở Việt Nam chúng ta, quan niệm nước “lấy dân làm gốc” ở nhiều đời vua như đời
vua Trần với quan điểm của Trần Hưng Đạo “khoan thư sức dân để làm kế bền gốc,
sâu rễ, đó là thượng sách giữ nước” hay đời vua Lê với quan điểm của Nguyễn
Trãi “chở thuyền là dân mà lật thuyền cũng là dân”… “việc nhân nghĩa cốt ở yên
dân”…, tư tưởng “lấy dân làm gốc” đã rất tiến bộ. Nhưng, dù sao đó cũng chỉ là
một tiêu chí đạo đức chứ chưa thể hiện rõ trong pháp luật. Ngay cả những bộ
luật tiến bộ thời phong kiến, người dân vẫn ở vị trí thấp kém, quyền lực nhà
nước vẫn trong tay nhà vua và hệ thống quan lại.
Ý tưởng dân chủ thực sự chỉ có thể xuất hiện trong
thời đại cách mạng tư sản. Nhưng dẫu sao đó vẫn chỉ là ý tưởng, còn từ ý tưởng
đến thực tế là việc xa vời. Giai cấp tư sản chưa thực hiện được ý tưởng dân chủ
như khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” do họ giương lên, thì đã phản lại
chính nó, biến ý tưởng dân chủ thành hình thức, còn thực chất người dân vẫn
trong vòng cương tỏa của chủ nghĩa tư bản. Nhất là khi chủ nghĩa tư bản đã trở
thành chủ nghĩa đế quốc, ý tưởng dân chủ không những không thực hiện được mà
còn bị bóp méo, tạo nên những kiểu dân chủ giả hiệu, dân chủ hình thức, dân chủ
chỉ dành cho những ai có tiền và có quyền, nghĩa là cả dân chủ cũng bị tha hóa
như tha hóa sức lao động, tha hóa đồng tiền.
Với Hồ Chí Minh, khái niệm dân chủ đã thực sự có nội dung đích thực, nghĩa
là dân được làm chủ thì chính chủ phải là đầy tớ; Dân làm chủ thì bao nhiêu lợi
ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân; công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân.
Tóm lại, dân là trên hết, trước hết, dân là tất cả; Trong bầu trời không có
gì quý bằng nhân dân. Hầu như không có lời nào để nói rõ hơn về quan niệm dân
chủ như cách diễn đạt của Hồ Chí Minh. Chính Người đã trả về cho quan niệm dân
chủ bản chất đích thực như nó vốn có.
Trong thực tế, Hồ Chí Minh không chỉ thực hiện ý tưởng dân chủ như Người
quan niệm mà bản thân Người là một tấm gương mẫu mực cho lòng yêu quý, kính
trọng nhân dân, không chỉ coi dân là gốc mà coi dân là đối tượng phục vụ, dân
là quý, dân là sức mạnh…
Rõ ràng, đây không chỉ là ý tưởng dân chủ mà đối
với Hồ Chí Minh, dân chủ là một thức tế, dân quyền là một nguyên tắc, dân sinh
là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Với trách nhiệm Chủ tịch nước, Người cũng
quan niệm đó là “người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận”.
Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh không cho phép bất cứ ai đứng trên nhân dân, ban
phát dân chủ cho nhân dân.
Từ quan niệm về dân chủ như trên, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân, đòi hỏi chính phủ và ủy ban nhân dân các
cấp phải thực sự là đầy tớ của nhân dân, trung thành với lợi ích của nhân dân,
việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức
tránh. Đó là nguyên tắc tổ chức của Đảng cầm quyền và Nhà nước của dân, do dân
và vì dân.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc dân chủ như trên, Hồ Chí Minh yêu cầu cán
bộ từ Trung ương đến cơ sở phải nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân, thực hiện cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư, coi nhân dân là đối
tượng phục vụ trên hết và trước hết. Hồ Chí Minh đã từng nói: “chúng ta đang ở
trong giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là
một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã
hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta. Chúng ta phải
thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ và thành kiến có gốc rễ sâu
xa hàng ngàn năm. Chúng ta phải thay đổi quan hệ sản xuất cũ, xoá bỏ giai cấp bóc
lột, xây dựng quan hệ sản xuất mới không có bóc lột áp bức. Muốn thế chúng ta
phải dần dần biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp. Chúng ta phải dần dần tập thể hoá nông nghiệp. Chúng ta phải biến một
nước dốt nát, cực khổ thành một nước văn hoá cao và đời sống tươi vui hạnh phúc”[4].
Những ý kiến trên của Hồ Chí Minh vừa thể hiện quan điểm về chủ nghĩa xã hội
phù hợp với dân tộc ta vừa nói rõ quan niệm về dân chủ của Người, coi con người
vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển, coi nhân dân vừa là đối tượng
phục vụ vừa là sức mạnh tuyệt đối có thể làm biến đổi tận gốc nền tảng xã hội,
xây dựng xã hội mới cao hơn.
Hiện nay, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản còn thắng
thế, chúng thường nêu nhiều quan điểm dân chủ, nhân quyền theo quan điểm tư sản
để áp đặt với các nước kém phát triển, nhất là những nước theo con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội, hòng đe dọa, lôi kéo họ vào vòng quay của chủ nghĩa tư
bản. Nhãn hiệu dân chủ, nhân quyền… vẫn luôn được giai cấp thống trị tư bản chủ
nghĩa trương lên để lôi ké, đe dọa các nước kém phát triển. Họ muốn biến khẩu
hiệu dân chủ thành những phe phái đối lập hòng chia rẽ sức mạnh thống nhất của
nhân dân, chia quyền thực tế của dân cho các ông chu tư sản để lừa dối nhân
dân, bắt nhân dân phục tùng theo ý đồ của họ.
Vì vậy, hơn bao giờ hết, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh về dân chủ càng có ý
nghĩa thời sự, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải hết sức tỉnh táo trong việc đề
ra những chính sách phù hợp lòng dân, tránh việc chạy theo những nhãn hiệu dân
chủ giả hiệu mà thực chất là không vì dân, không coi dân là gốc, không đúng với
quan điểm dân chủ của Hồ Chí Minh.
3. Về phát triển văn hóa trong xây
dựng chủ nghĩa xã hội
Xây dựng
chính sách văn hóa thấm nhuần tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là phải giàu lòng nhân
ái, thấm đậm tình người, lôi cuốn mọi người theo tinh thần hòa hợp dân tộc
không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, ở trong nước và ngoài nước.
Với Hồ Chí Minh, tư tưởng nhân văn với văn hóa chỉ là một. Nếu văn hóa là
thuộc tính của con người thì nhân văn càng phụ thuộc vào con người và chỉ có
người mới biết yêu thương, thông cảm với đồng loại đau khổ, con người mới có
văn hóa giàu tính nhân văn. Vì thế, chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh mang tất cả
những giá trị nhân đạo truyền thống của dân tộc và tinh hoa nhân đạo của thế
giới, có giá trị dẫn đường, giá trị soi ánh sáng văn hóa đến mọi người đang đấu
tranh cho sự nghiệp giải phóng đất nước, đang chống những hành vi vô đạo đức,
những thói hư tật xấu, những tệ nạn tham nhũng, quan liêu, những hiện tượng
phản văn hóa, hướng tới mục tiêu chân,
thiện, mỹ.
Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh gắn liền với con người hành động vì lý tưởng
cao cả, gắn liền với mỗi dân tộc muốn phấn đấu vươn lên xây dựng đời sống tươi
vui hạnh phúc. Vì thế, trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, có sự quán triệt
sâu sắc tư tưởng văn hóa trong mọi lĩnh vực phát triển đất nước như văn hóa
chính trị, văn hóa đạo đức, văn hóa pháp luật, văn hóa lối sống, văn hóa giao
tiếp, văn hóa nghệ thuật… Có thể nói, ở đâu cần văn hóa thì ở đó cũng cần thấm
nhuần tư tưởng nhân văn, coi tư tưởng nhân văn như hạt nhân của văn hóa, hướng
văn hóa vào mục tiêu con người, tất cả vì con người.
Cũng chính vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng văn
hóa, đặt văn hóa ở vị trí rất cao, văn hóa có thể soi đường cho quốc dân đi,
văn hóa có thể làm biến đổi con người từ dốt nát đến con người phát triển toàn
diện có năng lực sáng tạo. Văn hóa có thể thúc đẩy con người từ hoàn thiện,
biển đổi nhân cách, phát huy ý chí, nghị lực. Tóm lại, với Hồ Chí Minh, chỉ có
văn hóa mới biến con người thành con người nhân văn, con người có ý thức cộng
đồng, có lòng nhân ái, khoan dung, tôn trọng nghĩa tình…
Đề cao vị trí của văn hóa, coi văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu của
sự phát triển, chúng ta không chỉ thấy ở Hồ Chí Minh. Từ xa xưa, ở nước ta cũng
như trên thế giới, nhiều trí thức, nhất là những người gắn bó với dân tộc và
nhân dân nước mình vẫn đề cao sức mạnh văn hóa. Nguyễn Trãi đã từng nói đến sức
mạnh văn hóa và rất tự hào về nền văn hiến Việt Nam đã có từ lâu. Và gần đây thấy
rõ giá trị và sức mạnh văn hóa trong phát triển, UNESCO đã phát động Thập kỷ
thế giới phát triển văn hóa nhằm khuyến cáo nhân loại hướng về văn hóa, coi văn
hóa là nhân tố quyết định cho sự phát triển và chấn hưng đất nước mình.
Song, có thể nói, thấy rõ sức mạnh của văn hóa đến mức có thể coi "văn
hóa soi đường cho quốc dân đi" thì chỉ thấy ở Hồ Chí Minh.
Xuất phát từ quan niệm coi văn hóa có khả năng soi rọi ánh sáng cho con
người, Hồ Chí Minh chủ trương đưa văn hóa vào chính trị, kinh tế, xã hội và mọi
hoạt động khác, biến nó thành hạt nhân tích cực có tác dụng động lực cho sự
nghiệp cách mạng nói chung, sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta nói
riêng. Cũng chính vì vậy, giữa lúc “ngàn cân treo sợi tóc”, từ cuối năm 1946,
Hồ Chí Minh vẫn cho họp Đại hội văn hóa
toàn quốc lần thứ nhất và chính ở đây Người đã có bài phát biểu vô cùng
quan trọng, nhằm thức tỉnh nhân dân ta vùng lên không chỉ để chiến đấu chống kẻ
thù xâm lược mà còn hướng tới mục tiêu cao quý của cái Chân, cái Thiện, cái Mỹ vốn được xem là bản chất của văn hóa.
Ba nội dung nêu trên đương nhiên chưa phải là tất cả đặc điểm thể hiện tư
tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện phát triển chủ nghĩa xã hội ở nước ta,
song có thể nói, đó là những đặc điểm quan trọng nhất, cơ bản nhất, nếu thiếu
nó sẽ không thể có chủ nghĩa xã hội theo tư tưởng nhân văn của Người, nếu thiếu
nó đất nước ta sẽ phát triển theo con đường khác với con đường Hồ Chí Minh và
Đảng ta đã chọn, nếu thiếu nó những vấn đề khác sẽ khó thực hiện được.
4. Về động lực xây dựng chủ nghĩa xã hội là con người - "muốn có chủ
nghĩa xã hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa"
Từ quan niệm “lấy sức ta mà giải phóng cho ta”, Hồ
Chí Minh chủ trương xây dựng con người giác
ngộ chủ nghĩa xã hội trước khi có
chủ nghĩa xã hội hiện thực. Hồ Chí Minh tin vào con người, nhưng Người không có
lòng tin chung chung mà là tin vào con người khi được trang bị kiến thức văn
hóa và đặc biệt là có nhân cách, đạo đức, như Người nói là vừa hồng vừa chuyên.
Hồ Chí Minh nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ
nghĩa”[5].
Điều đó tưởng như duy tâm khi nghĩ rằng con người xã hội chỉ hình thành khi đã
có chủ nghĩa xã hội hiện thực. Nhưng, với tư duy biện chứng, chúng ta sẽ thấy
chủ nghĩa xã hội không phải tự nhiên mà có, nó chỉ hình thành do con người ý
thức được nó và thực hiện được nó.
Đó là triết lý hành động của Mác mà Hồ Chí Minh đã
tiếp thu một cách tích cực và sáng tạo. Từ đó, Người chủ trương xây dựng con
người phát triển toàn diện, chủ trương chính sách “trồng người”, nhìn xa trông
rộng, đưa ra quan niệm “mười năm trồng cây, trăm năm trồng người”. Cũng từ đó,
Người chủ trương cải tạo xã hội tận gốc, nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ
nghĩa cá nhân một cách quyết liệt.
Đây cũng là thể hiện quan niệm xây dựng con người lý tưởng giác ngộ chủ
nghĩa cộng sản nhằm đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng vô sản thành công. Nhưng,
với Hồ Chí Minh, con người lý tưởng ấy lại xuất hiện ở một đất nước sản xuất
nhỏ chưa qua giai đoạn xây dựng và phát triển xã hội công nghiệp. Do đó, con
người ở đây thường mang nặng tư tưởng sản xuất nhỏ, chịu ảnh hưởng mặt tiêu cực
của người nông dân. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh chủ trương phải cải tạo xã hội
tận gốc và đòi hỏi xây dựng một đội ngũ cán bộ giác ngộ cách mạng có đạo đức
cách mạng vững vàng, kiên định.
Người đã từng nói: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là
một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu
tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được
xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”[6].
Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, tại phiên họp đầu tiên
của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đề nghị: “Mở một chiến dịch
giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm chính” để
“làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao
động”. Điều đó chứng tỏ Hồ Chí Minh sớm có ý thức xây dựng con người mới, chẳng
những đảm bảo cho cách mạng giải phóng dân tộc thành công mà cũng để xây dựng
con người xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa
ở nước ta.
Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh không chỉ đề cao vị trí của đạo đức cách mạng mà
Người còn nâng vị trí đạo đức cách mạng lên thành một triết lý phát triển, coi
đạo đức là gốc của người cách mạng. Cần phải thấy rằng việc Hồ Chí Minh đề cao
đạo đức cách mạng là hợp quy luật hay là ngoại lệ chỉ thích hợp với hoàn cảnh
lịch sử Việt Nam trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc. Nếu việc đề cao
đạo đức cách mạng là ngoại lệ chỉ thích hợp với sự nghiệp cách mạng giải phóng
dân tộc thì phải chăng đến giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa cái triết lý
coi đạo đức là gốc của Hồ Chí Minh không còn thích hợp nữa. Đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay, khi đất nước ta tiến hành sự nghiệp đổi mới, việc nâng cao đạo
đức cách mạng phải chăng đã không còn thích hợp nữa, và điều đó là đồng nghĩa
với việc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa
sẽ không còn động lực, không còn con người, nghĩa là không còn lấy sức
ta mà giải phóng cho ta, hay nói cách khác, lấy sức ta xây dựng chủ nghĩa xã
hội cho ta mà phải chờ đợi thời cơ. Đó là những quan niệm không đúng với tư
tưởng Hồ Chí Minh và cũng không đúng với thực tế phát triển và chấn hưng đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
Hồ Chí Minh không phải là người đầu tiên đề cao vị trí, vai trò của đạo đức
và coi đạo đức xã hội như một điều kiện có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển
xã hội. Trước đây hàng chục thế kỷ, như chúng ta đều biết, các đạo giáo như
Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo, Gia tô giáo… đều đề cao vị trí của đạo đức,
đặc biệt là Khổng Tử, được coi là một nhà đạo đức lớn. Hồ Chí Minh đánh giá cao
Nho giáo chủ yếu là ở đạo đức học.
Song, khác với những đạo giáo và những người đề cao
đạo đức trước đây, Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà đạo đức mà đúng hơn phải
nói Người là một nhà cách mạng về đạo
đức. Bởi lẽ, Người tiếp thu tất cả những cái hay, cái đúng của các quan
điểm đạo đức có trước, đồng thời cải tạo lại những mệnh đề đạo đức của Nho giáo
cũng như đạo đức theo quan niệm tư sản cho phù hợp với thực tế đạo đức của xã
hội mới xã hội chủ nghĩa.Từ đó, Người tạo cho mình một hệ thống quan điểm đạo
đức mới, tạo thành một triết lý phát triển đạo đức, lấy đạo đức cách mạng làm
nền tảng.
Ý nghĩa nhân văn của triết lý coi đạo đức là gốc của cách mạng là ở chỗ, Hồ
Chí Minh không chỉ thấy vị trí của con người với tư cách chủ nhân của xã hội mà
còn chủ trương trang bị cho con người những phẩm chất và kiến thức cần thiết để
con người làm chủ xã hội, làm chủ bản thân.
Hồ Chí Minh không chỉ nói triết lý hành động theo
triết học mác-xít; quan trọng hơn là Người đã tìm ra con đường hành động theo
triết lý nhân văn của chủ nghĩa nhân văn mác-xít sao cho phù hợp với điều kiện
và thực tiễn xã hội ta. Điều này thực sự quan trọng không kém tầm quan trọng
của việc tìm ra triết lý hành động, bởi lẽ, chân lý bao giờ cũng là chân lý cụ
thể, triết lý hành động theo quan điểm mác-xít chỉ có thể trở thành chân lý khi
nó được vận dụng sáng tạo trong hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam với tất
cả những đặc điểm về văn hóa và con người Việt Nam.
Tóm lại, từ chỗ coi việc lấy sức ta mà giải phóng cho ta, lấy văn hóa soi
đường cho quốc dân đi, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng con người mới phát triển
toàn diện, có tư tưởng xã hội chủ nghĩa để thực hiện sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam là hoàn toàn hợp lôgich, đúng với quy luật phát triển.
Chính vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là triết lý hành động mà là một
triết lý hành động cách mạng đặc biệt phù hợp với điều kiện cách mạng mới, phù
hợp với thời đại con người đã có vị thế có thể tự giải phóng mình, giải phóng
dân tộc mình, có thể làm chủ bản thân, làm chủ đất nước và làm chủ nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh có những đặc điểm và nội dung vô cùng phong phú, thể
hiện một cách nhất quán trên toàn bộ hoạt động cách mạng của Người. Ở đây,
đương nhiên, chúng tôi chỉ có thể nêu những nội dung và đặc điểm cơ bản nhất.
Hơn thế nữa, bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương tiêu biểu về chủ nghĩa nhân
văn mang tầm thời đại./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét