Kế thừa những tư tưởng đề cao vị trí, vai trò của dân trong truyền thống
văn hóa phương Đông; những giá trị tốt đẹp trong nền dân chủ chủ nô thời cổ đại
Hy lạp, thời Phục hưng, trong nền dân chủ Tư sản và quan trọng nhất là nền dân
chủ Xã hội chủ nghĩa, mà theo V.I.Lênin thì đó là một nền dân chủ cao hơn gấp
triệu lần nền dân chủ tư sản. Bởi vì: “Lần đầu tiên, ở đây, chế độ dân chủ phục
vụ quần chúng, phục vụ những người lao động” [1]. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã xây dựng nền dân chủ kiểu mới ở Việt Nam với
chính thể “Dân chủ cộng hòa” nhằm đảm bảo cho dân tộc “Độc lập”, dân quyền “Tự
do” và dân sinh “Hạnh phúc”. Với luận điểm: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa
vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[2] đã đưa Hồ Chí Minh lên hàng đầu những
nhà dân chủ tiên tiến nhất trên thế giới, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin. Hạt nhân của luận điểm sáng tạo đó là Người đã phân tích rõ về vai trò của
thực hành dân chủ trong Đảng.
Thứ Ba, 16 tháng 5, 2017
ĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐỘĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
Sự kiện Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) một
mình ra đi tìm đường cứu nước, ngày 5 – 6 -1911, có ý nghĩa lịch sử lớn: Là mốc son đánh dấu sự kết thúc hơn 50 năm bế
tắc công cuộc đấu tranh chông thực dân Pháp, cứu nước của ông cha, đồng thời khởi
nguồn mở ra một thời kỳ mới trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc và
phát triển đất nước ta, nổi bật là thời kỳ đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo
ngày nay. Tìm hiểu những gì tác động như là động lực thôi thúc Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước góp phần không nhỏ làm sâu sắc thêm những ý
nghĩa lịch sử đó.
![]() |
Bến cảng Nhà Rồng - Nơi Người a đi tìm đường cứu nước |
Khi bàn về động lực Nguyễn Tất Thành ra
đi tìm đường cứu nước có thể nói đó chính là yêu cầu thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi cấp thiết phải tìm ra một con đường
cứu nước mới trước một thực tế đau xót là các cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu
nước chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế
kỷ XX đều lần lượt thất bại. Nguyễn Tất Thành là người sớm nhận thức được
yêu cầu của thực tiễn đó trên cơ sở của những nguồn động lực nội sinh ở một bậc
vĩ nhân được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử thời đó. Đó là lòng nồng
nàn yêu nước đã được nâng lên thành khát vọng cứu nước, cứu dân; là truyền thống
“một dân tộc độc lập và một quốc gia có chủ quyền” trong suốt chiều dài đấu
tranh giữ nước của dân tộc; là những kinh nghiệm được đúc kết thành triết lý
chiến thắng trong đấu tranh chống giặc của cha ông, là đạo hiếu của một người
con được cha mẹ và gia đình đặt niềm tin tưởng…
LAI CHÂU LUÔN TRONG TIM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Nguyện hiến
dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến năm
1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa hoạt
động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất
cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà
báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1].
Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước
hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi
con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là
mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được
tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”[2].
![]() |
Tượng đài Bác Hồ vói các dân tộc |
Tình thương yêu con người và hết lòng
chăm lo cho hạnh phúc của con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa bao la, vừa sâu
sắc, cụ thể thiết thực. Người không chỉ chăm lo cho hạnh phúc chung cho toàn
dân tộc Việt Nam, mà còn chăm lo hạnh phúc cho mỗi con người cụ thể ( “Sữa để
em thơ, lụa tặng già…”) không phân biệt dâj tộc (tộc người: Kinh, Mường, Mán,
Thái, Mèo, Tày, Nùng, ÊĐê, BaNa, XêĐăng…), tôn giáo, tầng lớp, nghề nghiệp,
đảng phái, giới tính, tuổi tác, vùng miền…Trong đó, trên tinh thần đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và công bằng cho
các dân tộc và mỗi con người về nghĩa vụ và quyền lợi phù hợp với điều kiện
lịch sử cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm sâu sắc cho đồng
bào ở các tỉnh xa sôi, hẻo lánh, vùng núi cao, biên giới, hải đảo – những nơi,
so với những tỉnh khác, điều kịên cho sự xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội
gặp rất nhiều khó khăn mà không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Một
trong số các tỉnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, động viên và
chăm sóc đặc biệt là tỉnh Lai Châu[3]
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...
-
Là người biết kế thừa, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hoá nhân loại vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tư tưởng ...
-
Thời kỳ trước và sau những ngày đầu Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đất nước ta, dân tộc ta vẫn còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ...
-
Từ giá trị truyền thống “Kính trọng người hiền tài” đến tư tưởng “Tìm người tài đức” của Hồ Chí MinhTrong lịch sử dân tộc, những người tài đức [1] (hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại phong kiế...