Thời kỳ trước và sau những ngày đầu Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước, đất nước ta, dân tộc ta vẫn còn chìm đắm trong
đêm dài nô lệ cho thực dân Pháp. Cùng với những biến động lớn của đời sống
chính trị, kinh tế,văn hóa, xã hội, trong thời kỳ diễn ra chính sách khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của tư bản Pháp, mối quan hệ đạo đức trung – hiếu cũng biến đổi tương ứng đòi hỏi được
lý giải thỏa đáng.
Trong
quan niệm đạo đức trung với hiếu của Hán nho thì trung là chuẩn mực đạo đức để
giải quyết mối qua hệ giữa vua với bầy tôi chỉ theo một chiều từ dưới lên. Vua
được gọi là quân, bầy tôi được gọi là thần. Mối quan hệ này được giải quyết đến
cực đoan là “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung” (Vua bắt bề tôi chết, bề
tôi không chịu chết là không trung với vua). Hiếu là chuẩn mực đạo đức để giải
quyết mối quan hệ giữa cha với con, cha gọi là phụ, con gọi là tử. Mối quan hệ
này được giải quyết cũng đến mức cực đoan là “Phụ xử tử vong, tử bất vong bất
hiếu” (Cha bắt con chết, con không vâng theo là bất hiếu). Vì vậy, đối với mỗi
người, rất khó thực hiện được vẹn toàn cả trung và hiếu. Quan niệm đạo đức Hán
nho khi được nhập vào Việt Nam đã có sự vận dụng theo truyền thống nội sinh của
dân tộc, nên việc giải quyết mối quan hệ trung – hiếu đã mang bản sắc văn hóa
Việt Nam. Nghĩa là gắn chặt với trách nhiệm và nghĩa vụ của cả hai cực: Chữ
trung được thực hiện trên tình thần “Vua thánh, tôi hiền” “Trung quân- Ái quốc”:
Vua chỉ xứng đáng là vua khi phải là một bậc minh quân, biết chăm lo, bảo đảm
lợi ích của dân tộc và chăm lo đời sống của nhân dân trên tinh thần “lấy dân
làm gốc”; tôi chỉ xứng đáng là thần khi biết phụng sự đắc lực cho vua mà trên
hết là cho dân, cho nước. Chữ hiếu được thực hiện trên tinh thần: “Cha - mẹ từ,
con hiếu”, nghĩa là cha mẹ chỉ xứng đáng là cha mẹ khi biết nuôi dưỡng, giáo
dục con nên người có ích cho gia đình và xã hội; con chỉ xứng đáng là con khi
đảm bảo được: Một là phải nuôi dưỡng cha mẹ lúc đau yếu, về già (tiểu hiếu). Hai
là không làm điều gì cho cha mẹ phải xấu hổ, đau lòng, lo lắng vì con (trung
hiếu). Ba là cố gắng rèn luyện, học thành tài để cống hiến cho dân tộc, cho
nhân dân làm rạng danh cho cha mẹ, gia đình, dòng họ (đại hiếu). Trong đó thì
đại hiếu là cao nhất, bao trùm nhất.
Lịch
sử dân tộc đã ghi đậm sự kiện về cuộc chia tay của Nguyễn Trãi với cha là Nguyễn Phi Khanh: Năm 1406, nhà Minh ồ ạt sang xâm chiếm
Việt Nam, bắt gần như toàn bộ triều đình nhà Hồ giải về Trung Quốc. Nguyễn Hùng
(con cả) và Nguyễn Trãi (con thứ) đã cải trang theo cha sang Trung Quốc. Đến
biên giới, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên Nguyễn Trãi: Con là người có học, có tài
“con nên trở về lập chí, rửa thẹn cho nước, trả thù cho cha, như thế mới là đại
hiếu, hà tất cứ phải vướng vít bên cạnh cha, để cho ngày tháng mòn mỏi mới là
hiếu hay sao”[1].
Như
vậy, ở nước ta trung quân luôn gắn liền với ái quốc và việc trong gia đình luôn gắn chặt
với việc chung của nước, của dân.
Ở
Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhất là thời kỳ sau khi phong trào
Cần Vương thất bại (1885 – 1896), trong triều đình nhà Nguyễn, đa số từ vua đến
quan đều đầu hàng, cam tâm làm tay sai cho Pháp, đàn áp các cuộc khởi nghĩa của
nhân dân ta. Các cuộc khởi nghĩa thời kỳ này đã nêu cao khẩu hiệu “Phen này
quyết đánh cả Triều lẫn Tây”. Trong bối cảnh đó, chuẩn mực đạo đức trung - hiếu đã có sự thay đổi
lớn: Vế “Trung quân, ái quốc” bây giờ chỉ còn lại “ái quốc” bởi vì còn minh
quân đâu nữa mà trung. Câu nói của Nguyễn Sinh Huy vào thời kỳ ông còn làm quan
bất đắc dĩ trong triều nhà Nguyễn (1905 – 1910): “Quan trường thị nô lệ, trung
chi nô lệ, hựu nô lệ” (làm quan là nô lệ, trong đám nô lệ, càng nô lệ hơn) và sự kiện vào
tháng 6 – 1922, Nguyễn Ái Quốc (tức Nguyễn Tất Thành) đã viết vở kịch Con rồng tre để đả kích tên vua bù nhìn
Khải Định,
khi tên vua này sang dự Hội chợ thuộc địa ở Mác xây… là những minh chứng rõ
ràng. Và như vậy, “Trung với vua” lúc này chuyển thành “Trung với nước” đồng
nghĩa với “Ái quốc”, cứu nước, cứu dân. Còn “Hiếu với cha mẹ” nằm trong “Hiếu với dân” và là “Hiếu với dân” ở bậc đại hiếu. Với quan niệm mới như vậy thì “Trung với nước, hiếu với dân” luôn
luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, tích hợp lại tạo thành nhân cách của một vĩ nhân.
Nguyễn
Tất Thành sinh
ra và lớn lên trong bối cảnh lịch sử đó, với tố chất thông minh, ham tìm tòi
cái mới, được cha mẹ, gia đình cùng quê hương giáo dưỡng về lòng yêu nước
thương dân sâu sắc, anh đã nắm bắt được bản chất đích thực của đạo trung – hiếu
hiện thời và đã giải quyết thành công, nêu một tấm gương sáng ngời về tận trung
với nước, tận hiếu với dân, cũng đồng nghĩa là làm tròn chữ hiếu với cha mẹ và gia đình, trong
thời kỳ trước và sau khi anh ra đi tìm đường cứu nước.
Ngay
từ thủa thiếu thời của Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Sinh Huy đã nhận thấy ở người
con trai thứ của mình có tư chất thông minh và lòng hiếu nghĩa khác thường. Ông
đã đặt niềm tin vào Nguyễn Tất Thành có thể thay mình thực hiện nghiệp lớn cứu
nước mà mình đã bất lực. Ông đã ra công dìu dắt và tạo mọi điều kiện cho Nguyễn
Tất Thành nuôi chí lớn trên tinh thần đại hiếu – cứu nước, cứu dân. Nguyễn Tất
Thành đã không phụ tình thương yêu và tin tưởng của cha.
Nguyễn
Tất Thành được cha trực tiếp truyền dạy chữ Nho, rèn cặp đạo đức “Thánh hiền”. Anh còn được gia đình giáo dục về tấm gương chống Pháp cứu nước của các sĩ phu thời bấy giờ như Vương
Thúc Mậu, Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám… Khi Nguyễn Sinh Huy thi đậu phó
bảng, tuy chưa ra làm quan, nhưng dân làng vẫn gọi ông là quan Phó bảng. Ông
không nói gì, chỉ viết lên xà nhà tám chữ “Vật dĩ quan gia vi ngô phong dạng”
nghĩa là “đừng lấy phong cách nhà quan làm phong cách nhà ta” để giáo dục các
con phải gắn bó với người dân lao động, không được quên lao động chân tay. Hàng
ngày, ngoài giờ học, Nguyễn Tất Thành vẫn cùng cha và anh chăm sóc mảnh vường để thêm nguồn sinh sống.
Khi
Nguyễn Sinh Huy được điều đi coi thi ở Thanh Hóa, ông gửi Nguyễn Tất Thành sang
học với thầy
Vương Thúc Quý (con của nhà chí sĩ Vương Thúc Mậu) để con mình học lòng yêu
nước, thương dân và rèn luyện ý chí làm trai phải giúp ích cho đời. Nhà thầy Quý là nơi tụ hội các
sĩ phu yêu nước trong vùng. Được nghe họ bàn luận, Nguyễn Tất Thành dần dần
hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các bậc cha chú trước cảnh nước mất nhà
tan. Vấn đề thời cuộc quan hệ đến sự sống còn của dân tộc ngày một thấm sâu vào
con tim và khối óc của anh, nuôi dưỡng chí lớn, thực hiện đạo hiếu với cha. Sau
này khi trả lời nhà văn Mỹ Anna Luyxtơrông về ý định xuất dương, Bác Hồ (trước
đó là Nguyễn Tất Thành) nói rõ: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh
ra tôi thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của
Pháp. Người này nghĩ là Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ.
Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng
bào tôi”[2]
Đầu
năm 1905, Nguyễn Tất Thành được theo cha đi đến nhiều nơi ở Hà Tĩnh, Nghệ An,
Thanh Hóa, Nam Định, Thái Bình để thảo luận với các bậc trí giả về thời cuộc và
con đường cứu nước. Đây là mục đích của Nguyễn Sinh Huy nhằm tạo tầm nhìn rộng
rãi, nắm bắt thời cuộc cho Nguyễn Tất Thành. Những chuyến đi này đã giúp Nguyễn
Tất Thành mở rộng thêm tầm nhìn và chiều sâu nhận thức. Anh thấy rõ: Không chỉ
riêng ở Nam Đàn mà đâu đâu trên đất nước mình, người dân cũng đều phải sống
trong kiếp ngựa trâu, ở đâu cũng âm ỉ những cuộc khởi nghĩa đánh đuổi quân thù…
Trong anh đã sớm hình thành ý chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào
và không khỏi băn khoăn khi thấy các cuộc khởi nghĩa của nhân dân đều thất bại.
Câu hỏi “làm thế nào để cứu nước?” đã sớm nảy nở trong tâm trí của anh.
Sự
tìm tòi giải đáp cho câu hỏi hóc búa ấy đã có lời chỉ dẫn đầu tiên sau khi nghe lời bàn của cụ nghè
Nguyễn Quý Song: “Muốn đánh Pháp thì phải hiểu Pháp, muốn hiểu Pháp thì phải
học chữ Pháp”[3].
Lời bàn này đã góp phần để Nguyễn Tất Thành được cha cho vào học ở Trường tiểu học Pháp – Việt
tại Vinh, mặc dù Nguyễn Sinh Huy vô cùng căm thù quân Pháp. Ở trường tiểu học
Vinh, Nguyễn Tất Thành chú ý đến ba từ, được sơn vào gỗ gắn phía trên bảng đen
“LIBERTE, EGALITE, FRETERNITE” (Tự do, bình đẳng, bác ái). Anh tìm hiểu và được
biết đó là khẩu hiệu nổi tiếng của cách mạng tư sản Pháp (1789). Đối với anh,
đó là những điều hoàn toàn mới lạ chưa thấy ở sách vở Nho học. Khi đó trong tâm
trí anh đã xuất hiện một ý tưởng mới là phải sang Pháp, phải làm quen với nền văn minh Pháp để tìm hiểu
xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ đó. Ý tưởng này được anh củng cố thêm
trong thời gian học ở Trường quốc học Huế (1908 – 1909) và tham gia cuộc biểu
tình chống thuế của nhân dân 6 tỉnh Trung Kỳ. Lúc này cha anh đang làm một chức
quan nhỏ ở Bộ Lễ trong triều đình, nhưng với ông làm quan chỉ là bất đắc dĩ, chỉ cốt cho các
con có điều kiện học tập, tu dưỡng nên người, nuôi dưỡng chí lớn cứu dân, cứu nước.
Hạ
tuần tháng 5 – 1909, cha anh có mặt tại Bình Định để chấm thi, sau đó được bổ
nhiệm chức đồng tri phủ lãnh chức tri huyện Bình Khê (Bình Định), phải có mặt
vào ngày 1 – 7 - 1909[4]. Cuối năm đó, Nguyễn Tất
Thành rời Trường Quốc học theo phụ thân vào Bình Định và được gửi vào học tiếp
chương trình tiểu học với thày giáo Phạm Ngọc Thọ lúc này đang dạy ở Trường
tiểu học Pháp – Việt Quy Nhơn.
Tháng
1 – 1910, Nguyễn Tất Thành được tin không vui. Cha anh đã bị người nhà Tạ Đức
Quang kiện lên tận triều đình về tội lạm dụng quyền dẫn tới cái chết của Quang.
Thực ra Tạ Đức Quang bị viên thập trưởng lính lệ đánh quá tay, ở nhà tạm giam
của huyện Bình Khê, về nhà được hai tháng rưỡi thì bị bệnh chết. Vào ngày 17 –
1 – 1910, triều đình tạm xử Nguyễn Sinh Huy bị kết án lao trượng, sau đổi thành
giáng 4 cấp và thải hồi[5], bị quản thúc ở dịch quán
chờ ngày giải về kinh để làm rõ thêm tội trạng. Trong thời gian này, cũng như
biết bao người con hiếu thảo khác, Nguyễn Tất Thành luôn lo lắng cho cha. Hơn 7
tháng sau, vụ án xét xử Nguyễn Sinh Huy mới kết thúc. Cha bị thải hồi đã tác
động mạnh tới Nguyễn Tất Thành và theo ước nguyện của cha, anh quyết định rời
Bình Định xuôi Nam tìm đường cứu nước. Trước khi
đi, anh đến thăm người cha thân yêu. Thấy Nguyễn Tất Thành đến tìm mình, cụ Nguyễn Sinh
Huy đã nghiêm giọng với con: “Nước mất không lo đi tìm, tìm cha phỏng có ích
gì”[6] . Là người hiểu sâu sắc về
đạo hiếu, cụ Huy nghiêm giọng nói với Nguyễn Tất Thành như vậy là mong muốn anh
nên vì đại nghĩa (đại hiếu ) mà quyết tâm ra đi “tìm nước”, chứ không nên bịn
rịn, luẩn quẩn với chữ hiếu thông thường. Mong Nguyễn Tất Thành hoàn thành đại
hiếu với cha như vậy cũng đồng nghĩa là trung với nước, hiếu với dân. Cuộc thăm hỏi vì nghĩa lớn đầy
trí tuệ và cảm động này sao trùng hợp với cuộc chia tay của Nguyễn Trãi và
Nguyễn Phi Khanh đến thế! Tuy thời điểm lịch sử cách xa nhau trên 500 năm (1406
– 1910) và hoàn cảnh cụ thể có khác nhau, nhưng đều thể hiện những giá trị đạo
đức cao cả, đều góp phần lớn tạo ra những anh hùng vĩ đại trong đấu tranh giải
phóng dân tộc.
Ngày
5 – 6 –1911, tầu Amiran Latusơ Tơrevin rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Mácxây (Pháp), mang theo người
thanh niên Việt Nam – Văn Ba (tên mới của Nguyễn Tất Thành) ra đi tìm đường cứu
nước. Ngày 6 – 7 – 1911, tầu cập cảng Mácxây. Ngày 15
– 9 – 1911, anh viết thư gửi Tổng thống và Bộ trưởng thuộc địa Pháp, xin được
vào học Trường thuộc địa của Pháp, với mục đích tìm hiểu thấu đáo cách thức cai
trị của Pháp, nhưng Pari đã từ chối yêu cầu của anh. Anh nhận ra rằng cách thức
tìm đường cứu nước không chỉ đơn giản như vậy, mà còn khó khăn, gian khổ hơn
nhiều. Vì vẫn chưa an tâm về cha, không biết bây giờ người đang sống ra sao và
ở đâu, nên anh quyết định theo tàu về lại Sài Gòn. Tại đây anh gửi thư cho Khâm
sứ Trung kỳ, nhờ chuyển giúp số tiền 15 đồng của anh cho cha mà anh không có
điều kiện gửi trực tiếp. Đại hiếu với cha anh đang cố gắng thực hiện, nhưng anh vẫn canh cánh bên
lòng, vì chưa
nuôi dưỡng được cha, nên có điều kiện là anh tìm cách thực hiện.
Cũng
với suy tư ấy, ngày 15 – 12 – 1912, từ Mỹ anh viết thư cho Khâm sứ Trung kỳ,
nhờ cho anh biết tình hình và địa chỉ của cha. Trong thư, anh nói đã gửi cho
cha ba ngân phiếu, nhưng anh mới chỉ nhận được một lần trả lời. Anh không thể
ngờ rằng cha anh - cụ Nguyễn Sinh Huy đã
vào Nam làm nghề
thuốc cứu dân. Để khỏi gây vướng bận cho các con, cụ Huy đã không thông báo địa
chỉ của mình cho những người thân trong gia đình ở quê nhà.
Từ
nước Anh xa xôi, ngày 16 – 4 – 1915, Nguyễn Tất Thành lấy tên là Pôn Thành, qua
lãnh sự quán Anh tại Sài Gòn, gửi thư cho Toàn quyền Đông Dương để nhờ chuyển
thư cho cha anh là Phó bảng Nguyễn Sinh Huy. Toàn quyền Đông Dương giao cho
chính quyền địa phương hỏi Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Tất Đạt. Nhưng cả hai đều
không biết được tin tức gì về thân sinh của mình kể từ khi ông vào Nam Kỳ từ
cuối năm 1911.
Để
làm tròn đạo hiếu với cha, cũng có nghĩa là Trung với nước, hiếu với dân, Nguyễn
Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã dồn và tập trung toàn bộ trí tuệ, tình cảm và sức
lực vào việc tìm cho được con đường cách mạng giải phóng dân tộc, cứu nước, cứu
dân. Sau gần 30 năm bôn ba nơi hải ngoại, ra vào chốn tù ngục, vượt qua tất cả
những khó khăn, thử thách, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy con đường cứu nước … “Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội” cùng với những phương thức thực hiện
thành công con đường đó. Từ đó cách mạng nước ta không ngừng gặt hái được những
thành tựu rực rỡ, càng về sau càng to lớn hơn. Nguyễn Ái Quốc đã thực hiện được
một cách xuất sắc lòng mong muốn của người cha thân yêu, thực hiện được trọn
vẹn đạo đức tận trung với nước, tận hiếu với dân!
Giữa
năm 1957, sau hơn 50 năm xa cách, Bác Hồ (tức Nguyễn Tất Thành trước đây) mới
có điều kiện trở về thăm quê. Người vẫn thuộc đường, thuộc ngõ, tự vạch hào rào
râm bụt đi vào nhà, không đi theo lối cổng mới mở chưa đúng chỗ. Với giọng Nghệ
An truyền thống, Người ân cần thăm hỏi những người thân, họ hàng ai còn ai mất,
không quên thăm hỏi những người bạn thủa thiếu thời và toàn thể bà con trong
thôn xã. Người nói: “Tôi là một người con tỉnh nhà đã hơn 50 năm xa cách quê
hương. Hôm nay là lần đầu trở về thăm tỉnh nhà. Có thể
nói là:
Quê
hương nghĩa nặng tình cao
Năm
mươi năm ấy biết bao nhiêu tình.
Đã lâu về quê hương, thì
thường tình người ta tủi tủi mừng mừng. Tôi không thấy tủi tủi mà chỉ thấy mừng
mừng”[7]
Cho
đến tận cùng của thời điểm đi xa, vĩnh biệt cõi đời, Bác Hồ vẫn muốn nghe đôi
khúc dân ca xứ Nghệ, hò Huế và đôi làn Quan họ…
[1]
Bùi Văn Nguyên, Văn chương Nguyễn Trãi,
Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H,1993, tr. 82.
[2]
Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, Nxb
Thông tin lý luận, Hà Nội – 1992, tập 1, tr 47 – 48.
[3]
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ Tĩnh, Những mẫu chuyện về thời niên thiếu của Bác Hồ, Nxb Sự thật, Hà Nội
– 1985, tr 61.
[4]
Hồ sơ của mật thám Trung kỳ số A.3780, lập ngày 21-1-1920
[5]
Hồ sơ mật số A.37801, ngày 21-1-1920, của tòa Khâm sứ Trung kỳ.
[6]
Trần Minh Siêu: Những người thân trong
gia đình Bác Hồ, Nxb Nghệ An, 2004, tr 34
[7]
Ban nghiên cứu lịch sử Đảng Nghệ Tĩnh, Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh, 1977, tr
44-45.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét