Trong lịch sử dân tộc,
những người tài đức[1]
(hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại
phong kiến kính trọng, tôn vinh. Người tài đức là những người hiền nhân tài giỏi
có phẩm chất đạo đức mẫu mực,có trí thức sâu rộng, biết đề ra phương thức đáp ứng
được xu hướng của thời cuộc và đòi hỏi của thực tế, có nhiều sáng tạo trong
công việc, có nhiều cống hiến to lớn cho dân, cho nước, thậm chí có thể mở ra một
giai đoạn phát triển mới trong lịch sử dân tộc. Trong đó, chủ yếu là đội ngũ
vua quan giữ vai trò lãnh đạo – quản lý chủ chốt của bộ máy nhà nước phong kiến.
Truyền thống “Kính trọng
người hiền tài” được hình thành sớm và ngày càng được phát triển. Ngay từ thời
các vua Hùng tới các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, nhất là từ
thời nhà Lý trở đi, tổ tiên ta đã rất quan tâm tới các khâu trong chính sách
xây dựng và phát triển đội ngũ những người hiền tài cho đất nước. Đến lượt họ lại
góp phần quyết định vào việc đào tạo, nuôi dưỡng, phát triển hiền tài. Ngô Quyền,
Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo,
Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ… đều là những người tài đức vẹn
toàn, những vĩ nhân của lịch sử, và cũng chính họ là những tấm gương mẫu mực
trong việc đào tạo, nuôi dưỡng và phát triển đội ngũ những người hiền tài cho
dân tộc.
Từ xưa, tổ tiên ta đã
quan niệm về nguồn gốc xuất thân, về bản chất và tiêu chuẩn (cấu trúc), cũng
như về vai trò của người hiền tài rất khoa học, biện chứng:
Truyền thống luôn khẳng
định rằng: Người tài đức của nước ta không thiếu. Họ được sinh ra ở khắp mọi
nơi, có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguyễn Trãi đã từng tổng kết:
Nước ta, so với Trung Quốc, tuỳ theo thời cuộc, tình thế của mỗi triều đại mà
có lúc mạnh, lúc yếu khác nhau, nhưng “Hào kiệt không bao giờ thiếu”[2]. Trong đọi ngũ của họ “Có
người là con em nhà hào phú tuấn kiệt, lại có người là con em các gia đìh hàn
vi thôn dã…”[3].
Ví dụ trong nghĩa quân Lam Sơn có: Lê Lợi – con em nhà háo phú tuấn kiệt, Trần
Nguyên Hãn – con em dòng dõi quý tộc, Nguyễn Trãi – vừa là con em dòng dõi quan
lại, vừa thuộc tầng lớp sĩ phu yêu nước, Nguyễn Chích – con em nông dân, Lê Lai
– tù trưởng dân tộc thiểu số… Trong đội ngũ những Người tài đức, còn có những
người là nhà sư, thày đồ, thày thuốc, nhà xây dựng, chế tạo công cụ máy móc,
các doanh nhân về văn học – nghệ thuật…
Tổ tiên ta cũng nói tới
bản chất của Người tài đức được tạo thành bởi sự tổng hợp của cả 3 yếu tố, qua
các câu ca dao, châm ngôn, thành ngữ…
Trước hết là các yếu tố
di truyền (bẩm sinh) – “Giỏ nhà ai, quai nhà lấy”, “Con ai mà chẳng giống cha,
cháu ai mà chẳng giống bà giống ông”, “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống
cánh” hay “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”… Về yếu tố
này, do chưa hiểu biết về khoa học kỹ thuật, nên chủ yếu được giải thích theo
quan niệm “Thiên mệnh” – do trời ban cho (thiên bẩm) – “Thông minh vốn sẵn tính
trời” (Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều).
Tiếp theo là yếu tố tự
thân (tài năng tự thân) – “Có chí thì nên”, “có công mài sắt, có ngày nên kim”
hay “xưa nay nhân định thắng thiên đã nhiều” (Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều”…
yếu tố này được giải thích: những người tạo được yếu tố này là do họ lao động,
học tập say mê, miệt mài với sự cố gắng nỗ lực phi thường… nhờ đó mà họ ngày
càng thông minh, có tài năng xuất chúng và đạo đức mẫu mực, có nhiều cống hiến
to lớn cho dân cho trước… Họ trở thành Người tài đức là điều tất yếu.
Thứ ba là yếu tố tác động
từ xã hội: được giáo dục tốt và tài năng mới hình thành của họ được nuôi dưỡng,
được sử dụng – “Không thầy đố mày làm nên”, “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”
hay “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”… Yếu tốt này được giải thích rằng: sở dĩ
con người có đạo đức và có tài năng là do được sinh ra và nuôi dưỡng trong một
môi trường giáo dục tốt ở gia đình, nhà trường và xã hội khác. Họ được cha mẹ
biết thương yêu và giáo dục con cái, có thày giỏi và hết lòng vì sự nghiệp đào
tạo nhân tài; có bạn bè tốt và tài năng của họ được nuôi dưỡng, sử dụng.
Đội ngũ những người tài
đức có vai trò rất lớn, góp phần quyết định sự phát triển thịnh vượng và gìn giữ
nền độc lập tự chủ của chế độ và quốc gia dân tộc: Các thế hệ kế tiếp của đội
ngũ những Người tài đức góp phần quyết định và làm thành truyền thống “Một dân
tộc độc lập, thịnh vượng và một quốc gia có chủ quyền”, “Bất tốn Hoa hạ”, “Nam
quốc sơn hà Nam đế cư”… Dân tộc ta hoàn toàn có quyền, đứng trên thế thượng
phong, tự hào về những truyền thống đó. Nguyễn Trãi đã khẳng định những truyền
thống đó như một tuyên ngôn bất hủ, với hào khí ngút trời:
“Xét như nước Đại Việt
ta
Thật là một nước văn hiến.
Bờ cõi sông núi đã
riêng
Phong tục Bắc Nam cũng
khác
Trải Triệu, Đinh, Lý,
Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống,
Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc
khác nhau
Mà hào kiệt không bao
giờ thiếu”[4]
Tổ tiên ta đã đánh giá
rất cao vai trò to lớn đó của đội ngũ những Người tài đức và đã khắc tên, tuổi,
sự nghiệp của họ vào bia đá để truyền tụng cho muôn đời con cháu: “Các bậc hiền
nhân tài giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chỉnh thể. Khi yếu tố này dồi dào
thì đất nước tăng tiến mạnh mẽ và phồn thịnh. Khi yếu tố này kém thì quyền lực
đất nước bị suy giảm… Những người tài giỏi là một sức mạnh đặc biệt quan trọng
đối với đất nước”[5].
Và “Những người tài giỏi là cái gốc làm nên sự nghiệp”[6]… Trên bia này còn ghi rõ:
Trong hơn 840 năm (1076 – 1917) đã có 187 khoa thi Hội, thi Đình, lấy 2898 Tiến
sĩ, trong đó có 47 Trạng nguyên. Chính họ đã “đánh dấu” những mốc son chói lọi,
“mở ra” những giai đoạn phát triển ngày càng rực rỡ hơn trong suốt quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
[1] Chúng
tôi sử dụng các tên gọi: Người tài đức, người hiền tài, nhân tài, hào kiệt… với
cùng một nghĩa
[2] Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, viện sử học: Nguyễn
Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1976, tr77
[3] Dịch
từ bản chữ Hán trên văn bia tiến sĩ 1763 ở Quốc tử giám Hà Nội.
[4] Uỷ
ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Sđd, tr 77
[5] Dịch
từ bản chữ Hán trên văn bia tiến sĩ 1763 ở Quốc tử giám Hà Nội.
[6] Dịch
từ bản chữ Hán trên văn bia tiến sĩ 1763 ở Quốc tử giám Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét