Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Từ giá trị truyền thống “Kính trọng người hiền tài” đến tư tưởng “Tìm người tài đức” của Hồ Chí Minh


Trong lịch sử dân tộc, những người tài đức[1] (hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại phong kiến kính trọng, tôn vinh. Người tài đức là những người hiền nhân tài giỏi có phẩm chất đạo đức mẫu mực,có trí thức sâu rộng, biết đề ra phương thức đáp ứng được xu hướng của thời cuộc và đòi hỏi của thực tế, có nhiều sáng tạo trong công việc, có nhiều cống hiến to lớn cho dân, cho nước, thậm chí có thể mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử dân tộc. Trong đó, chủ yếu là đội ngũ vua quan giữ vai trò lãnh đạo – quản lý chủ chốt của bộ máy nhà nước phong kiến.

Truyền thống “Kính trọng người hiền tài” được hình thành sớm và ngày càng được phát triển. Ngay từ thời các vua Hùng tới các triều đại Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn, nhất là từ thời nhà Lý trở đi, tổ tiên ta đã rất quan tâm tới các khâu trong chính sách xây dựng và phát triển đội ngũ những người hiền tài cho đất nước. Đến lượt họ lại góp phần quyết định vào việc đào tạo, nuôi dưỡng, phát triển hiền tài. Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ… đều là những người tài đức vẹn toàn, những vĩ nhân của lịch sử, và cũng chính họ là những tấm gương mẫu mực trong việc đào tạo, nuôi dưỡng và phát triển đội ngũ những người hiền tài cho dân tộc.
Từ xưa, tổ tiên ta đã quan niệm về nguồn gốc xuất thân, về bản chất và tiêu chuẩn (cấu trúc), cũng như về vai trò của người hiền tài rất khoa học, biện chứng:
Truyền thống luôn khẳng định rằng: Người tài đức của nước ta không thiếu. Họ được sinh ra ở khắp mọi nơi, có mặt ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Nguyễn Trãi đã từng tổng kết: Nước ta, so với Trung Quốc, tuỳ theo thời cuộc, tình thế của mỗi triều đại mà có lúc mạnh, lúc yếu khác nhau, nhưng “Hào kiệt không bao giờ thiếu”[2]. Trong đọi ngũ của họ “Có người là con em nhà hào phú tuấn kiệt, lại có người là con em các gia đìh hàn vi thôn dã…”[3]. Ví dụ trong nghĩa quân Lam Sơn có: Lê Lợi – con em nhà háo phú tuấn kiệt, Trần Nguyên Hãn – con em dòng dõi quý tộc, Nguyễn Trãi – vừa là con em dòng dõi quan lại, vừa thuộc tầng lớp sĩ phu yêu nước, Nguyễn Chích – con em nông dân, Lê Lai – tù trưởng dân tộc thiểu số… Trong đội ngũ những Người tài đức, còn có những người là nhà sư, thày đồ, thày thuốc, nhà xây dựng, chế tạo công cụ máy móc, các doanh nhân về văn học – nghệ thuật…
Tổ tiên ta cũng nói tới bản chất của Người tài đức được tạo thành bởi sự tổng hợp của cả 3 yếu tố, qua các câu ca dao, châm ngôn, thành ngữ…
Trước hết là các yếu tố di truyền (bẩm sinh) – “Giỏ nhà ai, quai nhà lấy”, “Con ai mà chẳng giống cha, cháu ai mà chẳng giống bà giống ông”, “con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh” hay “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa thì quét lá đa”… Về yếu tố này, do chưa hiểu biết về khoa học kỹ thuật, nên chủ yếu được giải thích theo quan niệm “Thiên mệnh” – do trời ban cho (thiên bẩm) – “Thông minh vốn sẵn tính trời” (Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều).
Tiếp theo là yếu tố tự thân (tài năng tự thân) – “Có chí thì nên”, “có công mài sắt, có ngày nên kim” hay “xưa nay nhân định thắng thiên đã nhiều” (Nguyễn Du viết trong Truyện Kiều”… yếu tố này được giải thích: những người tạo được yếu tố này là do họ lao động, học tập say mê, miệt mài với sự cố gắng nỗ lực phi thường… nhờ đó mà họ ngày càng thông minh, có tài năng xuất chúng và đạo đức mẫu mực, có nhiều cống hiến to lớn cho dân cho trước… Họ trở thành Người tài đức là điều tất yếu.
Thứ ba là yếu tố tác động từ xã hội: được giáo dục tốt và tài năng mới hình thành của họ được nuôi dưỡng, được sử dụng – “Không thầy đố mày làm nên”, “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” hay “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”… Yếu tốt này được giải thích rằng: sở dĩ con người có đạo đức và có tài năng là do được sinh ra và nuôi dưỡng trong một môi trường giáo dục tốt ở gia đình, nhà trường và xã hội khác. Họ được cha mẹ biết thương yêu và giáo dục con cái, có thày giỏi và hết lòng vì sự nghiệp đào tạo nhân tài; có bạn bè tốt và tài năng của họ được nuôi dưỡng, sử dụng.
Đội ngũ những người tài đức có vai trò rất lớn, góp phần quyết định sự phát triển thịnh vượng và gìn giữ nền độc lập tự chủ của chế độ và quốc gia dân tộc: Các thế hệ kế tiếp của đội ngũ những Người tài đức góp phần quyết định và làm thành truyền thống “Một dân tộc độc lập, thịnh vượng và một quốc gia có chủ quyền”, “Bất tốn Hoa hạ”, “Nam quốc sơn hà Nam đế cư”… Dân tộc ta hoàn toàn có quyền, đứng trên thế thượng phong, tự hào về những truyền thống đó. Nguyễn Trãi đã khẳng định những truyền thống đó như một tuyên ngôn bất hủ, với hào khí ngút trời:
“Xét như nước Đại Việt ta
Thật là một nước văn hiến.
Bờ cõi sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên đều chủ một phương
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau
Mà hào kiệt không bao giờ thiếu”[4]
Tổ tiên ta đã đánh giá rất cao vai trò to lớn đó của đội ngũ những Người tài đức và đã khắc tên, tuổi, sự nghiệp của họ vào bia đá để truyền tụng cho muôn đời con cháu: “Các bậc hiền nhân tài giỏi là yếu tố cốt tử đối với một chỉnh thể. Khi yếu tố này dồi dào thì đất nước tăng tiến mạnh mẽ và phồn thịnh. Khi yếu tố này kém thì quyền lực đất nước bị suy giảm… Những người tài giỏi là một sức mạnh đặc biệt quan trọng đối với đất nước”[5]. Và “Những người tài giỏi là cái gốc làm nên sự nghiệp”[6]… Trên bia này còn ghi rõ: Trong hơn 840 năm (1076 – 1917) đã có 187 khoa thi Hội, thi Đình, lấy 2898 Tiến sĩ, trong đó có 47 Trạng nguyên. Chính họ đã “đánh dấu” những mốc son chói lọi, “mở ra” những giai đoạn phát triển ngày càng rực rỡ hơn trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.


[1] Chúng tôi sử dụng các tên gọi: Người tài đức, người hiền tài, nhân tài, hào kiệt… với cùng một nghĩa
[2] Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, viện sử học: Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1976, tr77
[3] Dịch từ bản chữ Hán trên văn bia tiến sĩ 1763 ở Quốc tử giám Hà Nội.
[4] Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện sử học, Sđd, tr 77
[5] Dịch từ bản chữ Hán trên văn bia tiến sĩ 1763 ở Quốc tử giám Hà Nội.
[6] Dịch từ bản chữ Hán trên văn bia tiến sĩ 1763 ở Quốc tử giám Hà Nội.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...