Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Từ giá trị truyền thống “Kính trọng người hiền tài” đến tư tưởng “Tìm người tài đức” của Hồ Chí Minh


Trong lịch sử dân tộc, những người tài đức[1] (hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại phong kiến kính trọng, tôn vinh. Người tài đức là những người hiền nhân tài giỏi có phẩm chất đạo đức mẫu mực,có trí thức sâu rộng, biết đề ra phương thức đáp ứng được xu hướng của thời cuộc và đòi hỏi của thực tế, có nhiều sáng tạo trong công việc, có nhiều cống hiến to lớn cho dân, cho nước, thậm chí có thể mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử dân tộc. Trong đó, chủ yếu là đội ngũ vua quan giữ vai trò lãnh đạo – quản lý chủ chốt của bộ máy nhà nước phong kiến.

Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh


Hệ thống chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy tắc, quy phạm...) đạo đức mới- đạo đức cách mạng là bộ phận chính của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, được Người dầy công xây dựng trên cơ sở tổng kết những tinh hoa đạo đức nhân loại, quan trọng nhất là đạo đức Mác- Lêni, và những yêu cầu thực tiễn của thời đại ở cả trong và ngoài nước. Hệ thống đó rất toàn diện, nhưng sâu sắc nhất là những chuẩn mực đạo đức cơ bản.
Những chuẩn mực đạo đức cơ bản đều có tính chung nhất, phổ biến nhất, sâu sắc nhất hợp thành hạt nhân và quy định bản chất của một nền hay một tư tưởng đạo đức. Nó thường được biểu hiện thành những chuẩn mực đạo đức đặc thù và cụ thể hơn cho những đối tượng, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG VÀ TRONG QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa lớn

Kế thừa những tư tưởng đề cao vị trí, vai trò của dân trong truyền thống văn hóa phương Đông; những giá trị tốt đẹp trong nền dân chủ chủ nô thời cổ đại Hy lạp, thời Phục hưng, trong nền dân chủ Tư sản và quan trọng nhất là nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, mà theo V.I.Lênin thì đó là một nền dân chủ cao hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản. Bởi vì: “ lần đầu tiên, ở đây, chế độ dân chủ phục vụ quần chúng, phục vụ những người lao động”[1], Hồ Chí Minh, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công (1945), lần đầu tiên, đã xây dựng nền dân chủ kiểu mới ở Việt Nam với chính thế “ Dân chủ cộng hòa” nhằm đảm bảo cho dân tộc “ Độc lập”, dân quyền “ Tự do” và dân sinh “ Hạnh phúc”. Với luận điểm: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[2] đã đưa Hồ Chí Minh lên hàng đầu  những nhà dân chủ tiên tiến nhất trên thế giới, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin. Hạt nhân của luận điểm sáng tạo đó là Người đã phân tích rõ mối quan hệ biện chứng của thực hành dân chủ trong Đảng với thực hành dân chủ trong quần chúng nhân dân (mà nhiều khi Người gọi là dân chúng). Người viết và nói nhiều về vấn đề này. Nhưng tập trung, nổi bật ở các bài: Sửa đổi lối làm việc (1947), Cách làm việc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách (1948), Phê bình (1951), Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (1952), Thường thức chính trị (1953), Cái “chìa khóa vạn năng” (1967)…và cuối cùng là ở Di chúc của Người (1965 – 1969)

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...