Là
người biết kế thừa, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hoá nhân loại vào lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân
văn, tư tưởng đạo đức bác ái cao cả của Thiên chúa giáo cũng như nhiều tư tưởng
về con người của tôn giáo lớn nhất thế giới nay. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ thế giới
quan duy tâm của Thiên chúa giáo. Tuy thế giới quan ấy đối lập với thế giới
quan duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghĩa là đối lập với thế giới của Người,
nhưng Người vẫn tôn trọng quyền tự to tín ngưỡng – theo hoặc không theo một tôn
giáo nào của mọi người nói chung và những tín đồ Thiên chúa giáo nói riêng. Người
chỉ kiên quyết phê phán và chống lại sự lợi dụng tôn giáo, xuyên tạc tôn giáo của
các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch này chính là bọn thực dân, đế quốc
xâm lược, chúng đã xuyên tạc và lợi dụng tôn giáo vào mục đích gây chiến tranh
xâm lược các nước hòng bắt nhân dân các nước này cam chịu sự thống trị và bóc lột
tàn bạo của chúng. Tất cả những vấn đề đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ
Chí Minh được thể hiện trên hai mặt: Một mặt, Hồ Chí Minh kế thừa, đề cao những
mặt tốt, vận dụng sáng tạo những mặt tốt ấy để làm phong phú thêm tư tưởng của
Người về đại đoàn kết, cả đoàn kết toàn dân trong quốc gia dân tộc và đoàn kết
quốc tế, và đề cao, động viên đồng bào Thiên chúa giáo trong và ngoài nước tham
gia đông đảo vào khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết nhân dân toàn thế giới, tăng
thêm lực lượng cho cách mạng.
Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng vạch mặt bọn thực dân,
đế quốc xâm lược lợi dụng tôn giáo, giả danh Chúa vào mục đích, âm mưu “chia để
trị”: gây thù hằn giữa cộng sản với tôn giáo; gây thù hằn giữa đồng bào lương với
đồng bào giáo; thù hằn dân tộc này với dân tộc khác… để phục vụ cho mục tiêu
xâm lược và chống cộng sản của chúng v.v… Vì vậy, để thấy rõ bản chất của tư tưởng
Hồ Chí Minh, thì việc làm rõ những tư tưởng hợp lý ở trần tục của Thiên chúa
giáo, có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh là một điều rất cần thiết.
Đây là một mảng cơ sở lý luận rất quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh mà lâu
nay việc nghiên cứu vẫn còn rất khiêm tốn.
II.
Đạo Thiên chúa hay còn gọi là đạo
Kitô (Christianisome) là một tôn giáo do Jesus Chrit sáng lập trong thời kì
công nguyên. Sau đó đạo Kitô gồm ba môn phái: Giatô (Catho lique), Tin Lành
(Protestant), Chính giáo (Orthodoxe) và nhiều tiểu phái ở một số nước trên thế
giới. Đậo Kitô là một tôn giáo lớn: Hiện
nay có khoảng gần một tỷ tín đồ, chiếm khoảng 35% dân số toàn cầu. Trong đó có
khoảng gần 600 triệu tín đồ Giatô, gần 300 triệu tín đồ Tin Lành (Phúc Âm) và
khoảng gần 100 triệu tín đồ Chính giáo. Ở nước ta, từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu
thế kỷ XIX, đạo Kitô chủ yếu là môn phái Giatô. Sau đó có thêm môn phái Tin
Lành. Đạo Kitô cũng là tôn giáo duy nhất trên thế giới có nhà nước, có chính phủ,
thủ đô đồng thời là vương quốc là toà thánh Vaticant trong thủ đô Roma nước Ý.
Đạo Thiên chúa có những tư tưởng cơ bản dưới đây:
-
Tư tưởng về mối quan hệ giữa Chúa Jesus
với tín đồ.
Kitô giáo coi Jesus chính là chúa trời giáng thế để cứu
rỗi nhân loại. Đây là điểm cốt yếu (vừa hiện hữu – chúa Jesus, vừa không hiện hữu
– Chúa trời) trong tâm linh cộng đồng tín đồ Thiên chúa giáo. Chúa trời phái Jesus
xuống trần thế, lấy mình làm tấm gương mẫu mực về đức hy sinh cao cả của Jesus
(Chịu tội thay loài người bằng hình phạt đóng đinh câu rút), để răn dạy tín đồ
rằng kẻ nào tuân phục mọi điều răn dạy của Chúa trời và sống một cuộc đời tốt
lành thì kẻ đó sẽ nhận được hạnh phúc ở nước trời (Thiên đàng). Có hai điều răn
cơ bản nhất: “Phải yêu thương Thượng đế với cả tấm lòng, linh hồn và trí óc! Đó
là điều răn thứ nhất và quan trọng nhất. Điều răn thứ nhì cũng giống như thế:
Phải yêu thương người đồng loại như chính bản thân mình!”[1]
và “Hãy làm cho người khác điều các con muốn người ta làm cho mình”[2].
Chúa Jesus kết luận “Hai điều răn ấy làm nền tảng cho tất cả luật pháp và lời
tiên tri”[3].
Để được sống vĩnh cửu ở nước trời, các tín đồ phải thực hiện những điều răn ấy
của Thượng đế với những đòi hỏi của đạo đức được coi là thiện như: “Đừng giết
người; đừng ngoại tình; đừng trộm cắp; đừng làm chứng dối; phải hiếu kính cha mẹ
và yêu thương người đồng loại như chính bản thân mình…”[4]
và muốn được hoàn toàn phải “bán hết tài sản, lấy tiền phân phát cho người
nghèo để chứa của cải trên trời*”[5],
rồi theo chúa Jesus… Ngược lại, nếu ai không tuân theo những lời răn đó sẽ được
coi là những kẻ gian dối, lọc lừa và độc ác và bị đày đoạ vào hoả ngục. Thánh
kinh ghi rõ: “Không phải người nào gọi ta là Chúa cũng được vào nước trời, chỉ
những người vâng theo ý cha ta trên trời mới được vào đó”[6]
…
Chúa Jesus lúc nào cũng rất nhân từ, cứu giúp mọi người
, luôn mở rộng tình yêu thương đến con người. Sức mạnh của Chúa là ở tình yêu ấy
chứ không phải ở sự làm cho mọi người khiếp sợ, cũng không phải ở sự thống trị
bạo lực: Chúa luôn quan tâm đến đời sống, tự do và ước vọng của mọi người, luôn
tha thứ mọi tội lỗi của con người và biết giúp cho con người hoá giải những tội
lỗi ấy. Đó chính là lòng bao dung, độ lượng cao cả của Chúa. Phê-rơ, một trong
12 vị tông đờ đầu tiên của chúa, hỏi chúa: “Con phải tha thứ mấy lần cho người
có lỗi với con? Bẩy lần là nhiều phải không, thưa chúa?”. Chúa đáp: “Không! Bảy
mươi lần bẩy!”[7].
Tuy nhiên chúa vẫn nói đến có những trường hợp không thể tha thứ. Đó là trường
hợp không thể tha thứ cho những kẻ độc ác không biết tha thứ[8].
Jesus, là con đức Chúa trời. là Chúa cứu thế. Chúa
luôn gửi lời chào và hiệu triệu đến tất cả mọi người và chiếu rọi ánh sáng đến
mọi người, là đức chúa của hết thẩy mọi người chứ không riêng của một nhóm tín
đồ, của một quốc gia nào…
Con người không chỉ là kẻ được cứu rỗi hay là bề tôi của
chúa, mà còn là cha mẹ, anh em, con cháu của chúa. Thánh kinh có ghi: “Chúa
Giê-xu đang giảng dạy dân chúng, mẹ và các em Ngài đến đứng bên ngoài muốn nói
chuyện với Ngài. Nghe báo cáo, Chúa hỏi: “Ai là mẹ ta? Ai là em ta?”. Ngài chỉ
các môn đệ: “Đây là mẹ và anh em ta! Vì tất cả những người làm theo ý muốn của
cha ta trên trời đất đều là anh em, chị em và mẹ ta”[9].
Con người phải noi theo gương Chúa trong cuộc sống, trong tình yêu thương đồng
loại, yêu sự nghiệp của toàn thể loài người. Con người phải vươn tới sự thánh
thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh hằng…
-
Tư tưởng về một thế giới đại đồng
Đa số các tôn giáo lớn trên thế giới đều có tư tưởng về
một thế giới thống nhất, đại đồng. Tuy nhiên mẫu số chung của một thế giới đại
đồng ở mỗi tôn giáo ấy đều khác nhau ở những khía cạnh nhất định, tuỳ theo thế
giới quan và nhân sinh quan của mỗi tôn giáo. Mẫu số chung, quyết định thế giới
đại đồng, của Thiên chúa giáo được quyết định bởi hai quan điểm cơ bản: 1
là đức chúa toàn năng và tin tưởng rằng
nhân loại rồi sẽ trở thành tín đồ của chúa. 2 là Chúa không chỉ có sứ mệnh giác
ngộ, cứu rỗi con người, mà còn có sứ mệnh cứu rỗi các dân tộc theo gương nước
trời trên tinh thần luân lý và đạo đức cao cả - “hãy yêu thương con người như
yêu thương chính bản thân mình”… “các dân tộc được cứu”[10]
là điều mà Thánh kinh đã ghi rõ trên cơ sở phúc âm cho tất cả cac dân tộc:
“Chúa cũng cứu rỗi các dân tộc khác để họ ca ngợi Thượng đế vì tình thương của
Ngài như Thánh kinh đã ghi:
“Vì thế, tôi sẽ tôn vinh Chúa giữa các nước và ca ngợi
danh Ngài”.
“Các nước hãy chung vui với dân Chúa. Và “tất cả các
nước hãy tôn vinh Chúa. Tất cả các dân tộc, hãy ca tụng Ngài”[11]
và “Hậu tự nhà Giê-xu sẽ xuất hiện để cai trị các dân tộc”[12].
-
Tư tưởng về gia đình.
Giáo lý Thiên chúa giao đề cao quan hệ vợ chồng. Coi
đó là nguồn gốc, nền tảng cho xã hội loài người. Trong quan hệ vợ chồng, mỗi
phía phải theo bổn phận của mình, phải sống chứng nhân cho tình yêu. Qua việc tổ
chức hôn lễ và làm phép trong nhà thờ đã thể hiện rõ: Vợ, chồng đã hợp nhất với
nhau trong một giao ước tình yêu, như chúa Kitô thương yêu hội thánh. Theo đó,
luật đạo Thiên chúa quy định mối quan hệ ứng xử vợ chồng trong gia đình rành mạch,
có lý có lình, mỗi bên có phận sự riêng:
Người chồng phải sống trong một tình yêu không vị kỉ,
quên mình, hy sinh cho vợ như Jesus chịu đóng đinh trên cây thánh giá cho giáo
hội. Cụ thể là người chồng không ghen ghét, chửi rủa vợ bằng những lời nặng nề,
xấu xa hoặc không được để cha mẹ làm khổ vợ. Nếu vợ có lỗi thì chồng được sửa bảo
bằng lời lẽ có văn hoá, không được dùng bạo lực hành hạ vợ… Chồng còn phải chịu
khó lao động, không chơi bời du đãng, tiêu phá của cải trong gia đình, không để
vợ con đói khát, rách rưới, phải lo liệu để vợ giữ đạo của mình. Khi có con
cái, chồng có nghĩa vụ giúp vợ nuôi dạy con cái…
Người vợ phải sống hợp nhất với chồng trong tình yêu
chung thuỷ, sống hiền dịu, trao dâng trọn vẹn, không vụ lợi. Vợ phải biết kính
nể chồng, vâng lời chồng trong lẽ phải, không được khinh rẻ, chửi rủa chồng,
cùng chồng lo lắng cho hạnh phúc gia đình. Người vợ phải cùng chồng chăm lo
giáo dục con cái từ lúc đầu thai cho đến khi đứa trẻ sinh ra, trưởng thành… bằng
sự gương mẫu, hiền dịu và tình thương yêu bao la của người mẹ…
Giáo lý Thiên chúa giáo luôn mong muốn gia đình được
phát huy trên cơ sở truyền thống dân tộc, chống phong kiến trọng nam khinh nữ
và phải nhìn nhận sự bình đẳng, khả năng đa dạng của phụ nữ cả trong giáo hội
và xã hội…
Cùng với những quy định về quan hệ vợ chồng, giáo lý
Thiên chúa giáo còn quy định mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái. Con cái phải
“thảo kính với cha mẹ”. Đây là điều răn thứ tư trong 10 điều răn dạy của thiên
chúa đã được khắc vào bia đá ban cho Maisen. “Thảo kính cha mẹ”, từ trong ý
nghĩ đến việc làm cụ thể, tức là phải thực hiện đủ bốn điều: “Tôn kính bề
trong, bề ngoài, yêu mến thật lòng, vâng lời chịu luỵ và giúp đỡ phần xác”. Cụ
thể là: đối với cha mẹ, con cái phải nhân đức thương yêu, nhân đức thảo hiếu,
kính trọng, vâng lời, phụng dưỡng hết lòng để đền đáp công lao sinh thành và
nuôi dưỡng của cha mẹ. Thảo kính cha mẹ trong bất kì hoàn cảnh nào, đặc biệt
khi cha mẹ lâm nạn, ốm đau… Giáo lý Thiên chúa cũng có cả quy định những trường
hợp con cái có thể không vâng lời cha mẹ. Đó là trường hợp cha mẹ sống gian ác,
hung dữ không tuân theo điều răn của chúa… Trong giáo lý Thiên chúa, cả cha mẹ
và con cái đều phạm tội trọng hay tội nhẹ tuỳ theo mức độ không tuân theo lời
răn dạy của đức Chúa về các quy định của đạo đức và luật pháp.
-
Tư tưởng về kế hợp “đức trị” với
“pháp trị”
Trong Thánh kinh có đoạn viết rõ lời của Chúa: “Đừng
tưởng ta đến để huỷ bỏ luật pháp và lời tiên tri. Không, ta đến để hoàn thành
luật pháp và thực hiện các lời tiên tri. Ta nói quả quyết: Một khi trời đất vẫn
còn thì không một chi tiết nào trong luật pháp bị xoá bỏ, trước khi mục đích luật
pháp được hoàn thành. Người nào phạm điều răn nhỏ nhất và quyễn rũ người khác
làm theo là người hèn mọn nhất trong nước trời. Trái lại, người nào vâng giữ điều
răn và dạy người khác làm theo là người lớn nhất trong nước trời”[13].
Để minh hoạ cho sự kết hợp “đức trị” với “pháp trị”, kinh thánh cũng ghi rõ:
“Luật pháp Maisen dạy: “Không được giết người! Ai giết người phải bị đưa ra toà
xử tội. Nhưng ta bảo các con: người nào giận anh em mình cũng phải bị xét xử;
người nào nặng lời nhiếc mắng anh em cũng phải ra toà; người nào nguyền rủa anh
em sẽ bị lửa địa ngục hình phạt”[14]…
“Vậy, luật pháp và điều răn đều là thánh, đúng và tốt… Lợi dụng điều răn của
Thượng đế, tội lỗi thật quỷ quyệt hiểm độc vô cùng”[15].
Để khắc phục điều này, một mặt Thiên chúa giáo tin vào sự báo ứng của Thượng đế,
như tuyên bố của Chúa trời: “Báo ứng là việc của Ta, Ta sẽ thưởng phạt”[16],
mặt khác, Thiên chúa giáo kêu gọi và yêu cầu mọi người phai phục chính quyền:
“Mọi người phải vâng phục chính quyền vì chẳng có chính quyền nào không do Thượng
đế thiết lập. Vậy ai chống chính quyền là chống lại mệnh lệnh Thượng đế và sẽ bị
hình phạt”[17].
Chính quyền giúp mọi người làm điều thiện và thay mặt Thượng đế trừng phạt kẻ
ác. Vì vậy “phải vâng phục Chính quyền, chẳng những để khỏi bị hình phạt nhưng
cũng vì lương tâm”[18]…
Trên cơ sở đó, Thiên chúa giáo yêu cầu mọi người và tín đồ phải hoàn thành tốt
nghĩa vụ công dân…
III. Đứng trên lập trường duy vật và phương pháp luận
biện chứng, Hồ Chí Minh dã chắt lọc những yếu tố hợp lý, có giá trị lâu dài đối
với đời sống “trần gian” thiết thực của con người nói chung, của đạo hữu Thiên
chúa giáo nói riêng trong những tư tưởng cơ bản của đạo Thiên chúa nêu trên để
làm phong phú thêm tư tưởng của Người trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội,
góp phần lãnh đạo cách mạng Việt Nam tới thành công. Trong đó nổi bật là những
quan điểm cơ bản dưới đây:
Một là: Đạo thiên chúa nói riêng và tôn giáo nói chung
cùng đồng hành với dân tộc, với cách mạng nước ta.
Quan
điểm này của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ ở bài “Ai phá đạo” của Người được
đăng trên báo Nhân dân ngày 6/7/1955. Khi phê phán ý kiến cho rằng Đảng và Nhà
nước ta tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào có đạo chỉ là sách lược, nhất
thời, còn về lâu dài tôn giáo không thể đồng hành với những người cộng sản, bác
bỏ ý kiến cực đoan này, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tôi là cán bộ cách mạng, là người
cộng sản. Nhưng mục đích của chúng tôi là lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, được học
hành, sống sung sướng trong độc lập, tự do.
Các cụ lo việc tín ngưỡng thờ Chúa, lo
việc linh hồn tín đồ. Nhưng tín đồ cũng cần ăn, mặc, ở, học hành, cần được tự
do, hạnh phúc và các giáo sĩ chắc chắn cũng quan tâm rất nhiều.
Người cách mạng và người tôn giáo thống
nhất với nhau ở mục đích mưu cầu hạnh phúc ở đời này cho nhân dân. Chúng ta phải
lo nhiệm vụ ấy. Còn đối với tín ngưỡng tôn giáo thì đã có chính sách rõ ràng.
Chúng tôi tôn trọng và đảm bảo tự do tín ngưỡng của tất cả các tôn giáo. Như thế
kẻ nào đặt ra việc công giáo không đội trời chung với cộng sản là sai…”[19].
Ở tuyên bố này, Hồ Chí Minh đã nói rõ
tôn giáo và dân tộc cùng đồng hành trong quá trình cách mạng nước ta vì những
lý do chính đáng dưới đây.
a. Trước đây và trong quá trình cách mạng
nước ta, tôn giáo vẫn đồng hành với dân tộc, với chủ nghĩa xã hội vì còn có lý
do tồn tại.
- Trước hết tín ngưỡng tôn giáo vẫn
còn là đời sống tinh thần, là quyền con người của một bộ phận lớn nhân dân. Như
Hồ Chí Minh đã nói rõ là mọi người dân Việt Nam có quyền tự do theo hoặc không
theo một tôn giáo nào. Hơn nữa đối với tín ngưỡng tổ tiên còn là một hiện tượng
xã hội phổ biến từ xa xưa…
- Ngày 14/7/1969 khi tiếp và trả lời
phỏng vấn phóng viên báo Granma (Cu Ba). Người nói “Mỗi người, mỗi gia đình đều
có nỗi đau khổ riêng…”[20].
Trong điều kiện đó chức năng đền bù hư ảo của tôn giáo vẫn có sức cuốn hút một
bộ phận lớn nhân dân đi theo tôn giáo.
b. Thế giới quan, niềm tin của những
người theo tôn giáo và của những người cách mạng cộng sản, như Hồ Chí Minh
tuyên bố, tuy khác nhau, nhưng về mục đích có nhiều điểm tương đồng. Những điểm
tương đồng đó là:
- Yêu nước với đức tin tôn giáo (kính
Chúa) không mâu thuẫn với nhau mà thống nhất với nhau. Một người Việt Nam có thể
vừa yêu nước nồng nàn vừa là một tín đồ chân chính. “Yêu nước kính chúa”, “kính
chúa yêu nước”… là điểm tương đồng của đa số bà con giáo dân Việt Nam. Kính
chúa gắn liền với yêu nước, phụng sự tổ quốc gắn liền với phụng sự đức chúa, đẹp
đời tốt đạo… luôn luôn là mong ước của đồng bào theo đạo ở nước ta. Yêu nước và
đức tin tôn giáo thống nhất với nhau là cơ sở cho một điểm tương đồng lớn hơn
là cùng chung mục đích giải phóng dân tộc, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân cả
phần xác và phần hồn – “phần xác ấm no, phần hồn mới thong dong”. Hồ Chí Minh
chỉ rõ nước có vinh thì đạo mới sáng, nước không độc lập thì tôn giáo không được
tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã” [Báo Cứu quốc, ngày
14/1/1946]. Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng những kẻ tà ác, bán nước, cầu vinh
chính là những kẻ phản chúa, lợi dụng Chúa để làm ô danh Chúa. Chúng không chỉ
là “Việt gian mà còn là giáo gian”, là những kẻ “phản chúa, phản dân, phản nước”
như GiuĐa, như Ngô Đình Diệm v.v…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét