Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm tương đồng và khác biệt về con đường cách mạng Đông Dương, chủ yếu là cách mạng Việt Nam, giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản. Về bối cảnh ngoài nước – thường gọi là tình hình thế giới – được nổi bật bởi những sự kiện thuộc về phong trào cộng sản quốc tế đang lớn mạnh và nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới đã thành hiện thực – chiến tranh thế giới lần thứ hai mở màn.
Về đường lối cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng Đông Dương nói giữa Hồ Chí Minh với quốc tế cộng sản có những điểm tương đồng dưới đây:

          1 là: Tương đồng về cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác – Lênin, tập trung nhất là tiếp tục thực hiện tư tưởng cách mạng không ngừng do C.Mác và F.Ănghen nêu ra từ giữa thế kỷ XIX và V.I.Lênin thực hiện ở những năm đầu thế kỷ XIX. Theo Mác, Ănghen và Lênin thì: cách mạng vô sản không phải là cải biến mà là phải xoá bỏ chế độ tư bản; không phải là điều hoà và làm mờ nhạt những đối kháng giai cấp mà là phải thủ tiêu sự phân chia xã hội thành giai cấp – thủ tiêu giai cấp; không phải là cải cách xã hội hiện tồn mà là phải xây dựng thành công xã hội mới – xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa tiến tới giải phóng triệt để con người.
Sau cách mạng tháng Mười, V.I.Lênin tập trung chú ý đến phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa. Những phong trào này có quan hệ mật thiết với phong trào cách mạng vô sản ở các nước tư bản, trước hết là với các nước tư bản chính quốc, những nước xâm chiếm thuộc địa. V.I.Lênin đã giao cho Quốc tế Cộng sản ba nhiệm vụ trọng yếu: 1- Phải làm cho giai cấp vô sản và quần chúng lao động của tất cả các dân tộc và các nước đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau (“vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”) để tiến hành cuộc đấu tranh chung nhằm lật đổ bọn địa chủ và giai cấp tư sản. 2- Gắn liền cuộc đấu tranh giải phóng thuộc địa với cuộc đấu tranh và chiến thắng của chính quyền Xô Viết đối với chủ nghĩa đế quốc quốc tế. 3- Các đảng cộng sản phải trực tiếp ủng hộ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa[1]. Đây chính là điểm tương đồng đầu tiên giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản và với Lênin. Khi trả lời câu hỏi: vì sao Người bỏ phiếu tán thành quốc tế thứ ba? Người đã nói rõ: “Tôi không biểu thị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản. Nhưng tôi hiểu rõ một điều. Đệ tam quốc tế rất chú ý đến vấn đề giải phóng thuộc địa. Đệ tam quốc tế nói sẽ giúp đỡ các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và độc lập của họ. Còn đệ nhị quốc tế không hề nhắc đến vận mạng các thuộc địa. Vì vậy tôi đã bỏ phiếu tán thành đệ tam quốc tê. Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[2].
Thực chất của những tương đồng nêu trên là tương đồng về mục tiêu chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản tiến tới giải phóng triệt để con người và tính chất của cong đường cách mạng Việt Nam; là tương đồng về quan hệ máu thịt giữa cách mạng giải phóng thuộc địa với cách mạng vô sản trước hết là ở các nước tư bản chính quốc, với cuộc đấu tranh chung chống chủ nghĩa đế quốc thực dân mà nước Nga Xô Viết là trụ cột. Đây là những tương đồng nền tảng chi phối những tương đồng khác dưới đây.
2 là: Cuối cùng thì giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản đều tương đồng về việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, con đường giải phóng dân tộc bằng cong đường cách mạng vô sản, Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ tình triệt để của cách mạng là phải tiến hành giải phóng giai cấp. Người khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới”[3]. Người cũng chỉ rõ: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc”[4]. Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng vai trò và địa vị lịch sử của giai cấp công nhân đối với tiếng trình cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng nhân loại. Hồ Chí Minh, do đó, là người yêu nước Việt Nam đầu tiên xác định giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là yếu tố cốt lõi trong việc giải quýêt mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, quốc gia với quốc tế.
3 là: Tương đồng về việc xây dựng Đảng cộng sản – đội tiên phong, bộ chỉ huy tối cao của giai cấp công nhân. Trên cơ sở nhận thức rõ cách mạng muốn thành công phải có Đảng lãnh đạo và Đảng đó phải “là Đảng cộng sản”[5], Hồ Chí Minh, trong những năm 20 và đầu những năm 30 của thế kỷ XX, đã tập trung trí tụê và sức lực của mình cho việc thành lập Đảng cộng sản, từ việc tuyên truyền giác ngộ Chủ nghĩa Mác – Lênin đến việc quyết định triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập một Đảng cộng sản duy nhất ở Việt Nam, vào cuối năm 1929 đầu năm 1930, mặc dù Người chưa nhận được chỉ thị về việc thành lập một Đảng Cộng sản ở Đông Dương, ngày 27/10/1929, của Quốc tế Cộng sản. Như vậy, chỉ xét về chủ trương, đường lối là phải thành lập một Đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng, thì giữa Quốc tế Cộng sản với Hồ Chí Minh có điểm chung, thống nhất – tương đồng về cơ bản, có ý nghĩa quyết định đến phong trào cách mạng.
4 là: Tương đồng về xác định kẻ thù cần đánh đổ, về lực lượng cơ bản, chủ công của cách mạng và về đoàn kết quốc tế trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng, thuỷ chung. Đây là những vấn đề có tính nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin nên có thể thấy rất rõ trong các bài viết, nói của Hồ Chí Minh và trong các Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản.
Hồ Chí Minh và Quốc tế Cộng sản đều xác định đúng kẻ thù cần phải đánh đổ là các thế lực phản cách mạng, mà đầu sỏ là bọn đế quốc, thực dân xâm lược, là bọn áp bức, bóc lột quảng đại quần chúng nhân dân lao động… Xác định đúng kẻ thù là cơ sở để xác định đúng lực lượng của cách mạng: Đó là lực lượng đoàn kết quảng đại quần chúng nhân dân bị áp bức, bóc lột, bị đoạ đày đau khỏ mà nòng cốt là khối công nông liên minh dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản – đội tiền phong của giai cấp công nhân. Đó còn là khối đoàn kết quốc tế trên tinh thần Quốc tế vô sản, trước hết là đoàn kết giai cấp vô sản ở chính quốc với nhân dân các nước thuộc địa, phụ thuộc
5 là: Tương đồng về phương pháp chủ đạo của cách mạng.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đều cho rằng có hai phương pháp giành chính quyền: giành chính quyền bằng bạo lực cách mạng và bằng đấu tranh hoà bình, tuy nhiên chủ yếu vẫn là bằng bạo lực cách mạng. Trên cơ sở lý luận đó và từ thực tiễ lịch sử những năm 30 của thế kỷ XX, Hồ Chí Minh cũng như Quốc tế Cộng sản, đều chủ trương phải sử dụng bạo lực cách mạng là chủ yếu. Sau này Hồ Chí Minh kết luận rõ: “Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và dân tộc, cần dùng bạo lực cách mạng chống lại bạo lực phản cách mạng, giành chính quyền và bảo vệ chính quyền”[6].
Về những điểm khác biệt.
Đồng thời với những điểm tương đồng chủ yếu nêu trên, giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản vẫn có nhiều điểm khác biệt trong suốt thời kỳ tồn tại của Quốc tế Cộng sản (1919 – 1943) và cũng có những khác biệt trong một kỳ đại hội của Quốc tế này – Đại hội VI Quốc tế Cộng sản (1928 – 1935). Những điểm khác biệt này tập trung ở những sáng tạo của Hồ Chí Minh khi vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin và Nghị quyết của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Trước hết, khác biệt lâu dài nhất xoay quanh nhận thức vấn đề: cách mạng vô sản ở chính quốc thành công trước hay cách mạng giải phóng thuộc địa thành công trước và hai cuộc cách mạng đó phụ thuộc vào nhau như thế nào?
V.I.Lênin, căn cứ vào điều kiện lịch sử sau cách mạng tháng Mười Nga thành công, đã trình bày rõ những quan điểm của mình về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Để trả lời câu hỏi: “Ở nơi nào chủ nghĩa cộng sản có nhiều khả năng thắng lợi, ở phương Tây hay phương Đông?” Lênin đã khẳng định: “Hiện thời chủ nghĩa cộng sản chỉ có thể thắng lợi ở phương Tây”[7]. Trên cơ sở đó “Lênin đặt cách mạng thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, là “hậu bị quân” của cách mạng vô sản chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc chỉ có thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc thắng lợi”[8]. Theo tư tưởng của Lênin, Quốc tế Cộng sản và nhiều đảng cộng sản ở châu Âu lúc bấy giờ và sau này đều cho rằng thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, trong đó có cách mạng ở Đông Dương và Việt Nam, phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc, rằng chỉ có cách mạng vô sản ở chính quốc thắng lợi rồi mới có điều kiện trực tiếp giúp đỡ cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đi tới thành công.  Khác với những  quan điểm đó của Lênin và của Quốc tế Cộng sản, ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, trên cơ sở phân tích sâu sắc điều kiện lịch sử của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đi tới kết luận: cách mạng ở thuộc địa có thể và cần phải nổ ra trước cách mạng vô sản ở chính quốc, bởi vì: “sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công việc giải phóng nữa thôi”[9] và hơn nữa bằng những thắng lợi của mình, nhân dân các dân tộc thuộc địa có thể giúp đỡ cách mạng vô sản ở các nước chính quốc mau tới thắng lợi. Hồ Chí Minh viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân chấu Á bị tàn sát và bị áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[10]. Luận điểm này vẫn được Hồ Chí Minh kiên định trong những năm về sau cho đến cuối đời. Thực tế lịch sử ở Việt Nam và nhiều nước khác đã minh chứng tính đúng đắn của luận điểm đó. Đây là một luận điểm rất sáng tạo, rất mới của Hồ Chí Minh, góp phần bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong điều kiện lịch sử mới, về đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại.
Tiếp theo là những khác biệt giữa Hồ Chí Minh với những nghị quyết tại Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VI (1928) về đường lối cách mạng Việt Nam, kéo dài từ đó cho đến Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản (1935). Sau Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng cộng sản Việt Nam (1930), Hồ Chí Minh “được biết: các văn kiện của Hội nghị hợp nhất gửi về Matxcơva đã không được Quốc tế Cộng sản chấp nhận”[11]. Vì Quốc tế Cộng sản coi những quan điểm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh trình bày trong đó là phạm sai lầm “hữu khuynh”, “dân tộc chủ nghĩa”. Như vậy ít ra giữa Hồ Chí Minh với những nghị quyết của Quốc tế Cộng sản VI có những khác biệt dưới đây:
1 là: Khác biệt về tuần tự của con đường cách mạng Đông Dương, trong đó có Việt Nam: Theo Quốc tế thì bước thứ nhất – thực hiện nhiệm vụ trước hết là đánh đổ giai cấp địa chủ phong kiến đem lại ruộng đất cho nông dân, tiếp theo – thực hiện nhiệm vụ đánh đổ đế quốc thực dân Pháp giải phóng dân tộc, sau đó mới thực hiện nhiệm vụ cuối cùng là cách mạng xã hội chủ nghĩa. Còn theo Nguyễn Ái Quốc thì trước hết, có ý nghĩa tiên quyết, là phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, từng bước tiến hành cuộc đấu tranh chống phong kiến và tư sản tay sai, liền ngay sau đó là thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng xã hội cộng sản. Đó chính là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liên với chủ nghĩa xã hội theo tuần tự là: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”[12] được thể hiện rõ trong những văn kiện tại Hội nghị hợp nhất thành lập đảng cộng sản Việt Nam (1930).
2 là: Khác biệt trong việc giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp ở Đông Dương và Việt Nam: Quốc tế Cộng sản VI đặt vấn đề tiến hành đấu tranh giai cấp lên trước hết, sau đó mới tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngược lại, Nguyễn Ái Quốc về cơ bản đặt vấn đề đấu tranh giải phóng dân tộc lên trước hết. Và từng bước tiến hành đấu tranh giai cấp. Sau này, trong bài Kính cáo đồng bào, ngày 6/6/1941, Nguyễn Ái Quốc viết: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa bỏng”[13]. Thống nhất với sự phân tích của Nguyễn Ái Quốc, Trung ương Đảng ta cũng nói rõ: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”[14]. Phải đợi đến đại hội VII Quốc tế Cộng sản và thực tế thắng lợi của cách mạng Việt Nam mới chứng minh được sự đúng đắn, trí tuệ và tài năng sáng tạo kiệt xuất của Hồ Chí Minh.
3 là: Khác biệt trong việc giải quyết vấn đề dân tộc với quốc tế: Quốc tế Cộng sản VI đặt vấn đề quốc tế lên hàng đầu, thứ đến là vấn đề dân tộc. Biểu hiện rõ nhất là chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, ngày 27/10/1929, gửi những người cộng sản Đông Dương yêu cầu thành lập Đảng cộng sản Đông Dương chứ không phải thành lập một đảng riêng cho mỗi nước Đông Dương. Khác với Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề dân tộc lên trước hết, do đó Người đã quyết định thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Trong các văn kiện thành lập Đảng, không thấy Nguyễn Ái Quốc nói đến thành lập “Liên bang Đông Dương” mà thành lập chính quyền Xô Viết công nông binh ở Việt Nam… Cơ sở của sự quyết định sáng tạo, đúng đắn này là ở những nhận thức sâu sắc của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1924. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước… giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên cái động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ. Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”[15].
4 là: Khác biệt về động lực cách mạng: Quốc tế Cộng sản nhấn mạnh “động lực cách mạng chỉ gồm công nhân và nông dân” cho nên “không bao giờ được liên mình” với tư sản dân tộc và phú nông, “không nên cường điệu khuynh hướng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản thành thị, lại càng không nên xem những phần tử ít cách mạng nhất – tầng lớp tiểu thương như là động lực cách mạng”[16]. Khác với quan điểm của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc xác định động lực của cách mạng là khối đoàn kết toàn dân bao gồm giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp tiểu tư sản trí thức, giai cấp tư sản dân tộc và các cá nhân yêu nước thuộc tầng lớp địa chủ vừa và nhỏ trên nền tảng của công nông liên minh. Chỉ có động lực cách mạng to lớn này mới đảm bảo cho cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản thành công ở Việt Nam.
Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VII (1935) đã sửa chữa những sai lầm ấu trĩ tả khuynh trong những nghị quyết của Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ VI. Từ đây đường lối cách mạng ở Đông Dương nói chung và ở Việt Nam nói riêng do Nguyễn Ái Quốc xác định về cơ bản là phù hợp với Quốc tế Cộng sản. Đi theo đường lối đúng đắn do Hồ Chí Minh vạch ra, cách mạng Việt Nam đã liên tiếp giành thắng lợi ngày càng to lớn hơn cho đến tận ngày nay, góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc vì hoà bình và chủ nghĩa xã hội trên toàn thế giới.


[1] Tóm tắt từ V.I.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M – 1977, tập 41, tr 198 – 200.
[2] Trần Dân Tiên, những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr 49.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 1, tr 416
[4] Sđd, tập 1, tr 461
[5] Nguyễn Thành: Sự nghiệp báo chí của chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1988, tr 151.
[6] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 12, tr 304.
[7] V.I.Lênin toàn tập, Nxb Tiến bộ, M – 1979, tập 41, tr 162.
[8] Võ Nguyên Giáp: tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội – 1997, tr 67
[9] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 1, tr 28.
[10] Sđd, tập 1, tr 36
[11] Học viện CTQG Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh tiểu sử, Nxb lý luận chính trị, Hà Nội – 2006, tr 222.
[12] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 3, tr 1.
[13] Sđd, tập 3, tr 198.
[14] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000
[15] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 1, tr 466 – 467.
[16] Võ Nguyên Giáp: tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb CTQG, Hà Nội – 1997, tr 26

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...