GS, TS. GENNADY ZYUGANOV
Phó Chủ tịch Duma Quốc
gia Nga (1995-2000), Đại học Quốc gia Matxcơva
Tóm tắt: “Trong tương lai xã hội loài người
có còn chủ nghĩa xã hội hay không?” Câu hỏi này thực ra không có gì để tranh
luận. Vấn đề là, chủ nghĩa tư bản có kiềm chế lâu dài sự tiến bộ của văn minh
nhân loại hay không? Nhân loại sẽ hướng tới chủ nghĩa xã hội - một xu hướng
không thể cưỡng lại, nhưng điều này không có nghĩa là ở tất cả các nước tư bản
chủ nghĩa phát triển, các điều kiện khách quan để chủ nghĩa tư bản quá độ sang
chủ nghĩa xã hội đều đã chín muồi, và sự hình thành của các điều kiện khách
quan chỉ là cơ sở vật chất cho việc xây dựng lại xã hội, tương lai phát triển
của nó phụ thuộc vào sức sống của quốc gia với tư cách là chủ thể kinh tế - xã
hội và những gì chưa sẵn sàng quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ là các yếu tố chủ
quan hoặc nhân tạo. Phương thuốc tốt nhất để chữa trị căn bệnh tinh thần chống
chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa cộng sản là nghiên cứu kỹ tư tưởng xã hội chủ
nghĩa của các nước trên thế giới, và thực tiễn xã hội chủ nghĩa của các nước xã
hội chủ nghĩa, bao gồm cả Liên Xô.
Từ khóa: Văn minh nhân loại; Phong trào dân
chủ; Chủ nghĩa xã hội.
------------------------------------------------
1. Điều kiện chủ quan và
khách quan hình thành nên chủ nghĩa xã hội
Khi phân tích triển vọng
của chủ nghĩa xã hội, chắc chắn chúng ta sẽ đặt ra câu hỏi: Trong tương lai xã
hội loài người có còn chủ nghĩa xã hội hay không? Câu hỏi này thực ra không có
gì để tranh luận bởi nó đã tồn tại. Về lâu dài, toàn bộ lịch sử văn minh của
con người hiện đại (homo sapiens) cuối cùng sẽ bước vào giai đoạn phát triển
của chủ nghĩa xã hội. Cách đây không lâu, con người còn cho rằng trái đất
phẳng, càng không biết thế nào là chủ nghĩa tư bản cũng như chủ nghĩa xã hội,
chỉ sau khi nhận thức được quy luật phát triển của xã hội, mới bắt đầu xác nhận
mục tiêu phát triển là chủ nghĩa xã hội. Nếu có ai đó muốn phủ định điều này,
thì thật là việc làm vô nghĩa chẳng khác nào phủ nhận định luật vạn vật hấp
dẫn. Chúng ta chỉ có thể kiềm chế, hoặc ngược lại thúc đẩy sự xuất hiện của chủ
nghĩa xã hội, cũng giống như việc mọi người học cách vượt qua hoặc sử dụng định
luật vạn vật hấp dẫn.
Chúng tôi muốn nói với
những người phản đối chủ nghĩa xã hội rằng, chủ nghĩa xã hội hằng ngày, hằng
giờ đều đang thâm nhập vào từng tế bào của xã hội. Cấu trúc xã hội và các cấu
trúc vật chất với những hình thức đã biết, đều không thể ở trạng thái đứng yên,
mà luôn phát triển, biến đổi theo một hướng nào đó. Loại biến đổi này có thể là
những vận động hỗn loạn, theo hình xoáy ốc hay theo hình tròn, dù thế nào thì
cũng đều phải vận động. Nhiều triết gia nổi tiếng cho rằng, sự phát triển của
cấu trúc xã hội là tiến lên theo hình xoáy ốc, không ngừng di chuyển tiếp cận
mức độ phát triển hoàn thiện hơn. Xã hội không thể quay trở lại chủ nghĩa cộng
sản nguyên thủy, bởi vì nó là giai đoạn khởi nguyên. Con người hiện đại cũng
không thể cam chịu dừng lại ở giai đoạn chủ nghĩa tư bản, mà buộc phải biến
đổi. Sau chủ nghĩa tư bản sẽ xuất hiện xã hội với những hệ thống chế độ như thế
nào? Ngoài chủ nghĩa xã hội, cho đến nay vẫn chưa có ai đưa ra bất cứ một hình
thức xã hội mới nào. Xã hội hậu tư bản chủ nghĩa chắc chắn không phải là hệ
thống tư bản chủ nghĩa thế kỷ XVII-XXI. Chờ đợi chúng ta ở phía trước là xã hội
như thế nào? Các nhà triết học và kinh tế học nghiên cứu chính sách nên kịp
thời trả lời câu hỏi này, nên đưa ra quan điểm của mình về nhận thức thế giới,
đề xuất chính sách quốc gia thích ứng với sự phát triển của văn minh nhân loại.
Ngay cả ở các nước tư bản
phát triển nhất, chủ nghĩa xã hội cũng có thể “lặng lẽ” đi vào thực tiễn. Rõ
ràng, trước tiên là do quy luật phát triển của văn minh nhân loại. Nó biểu hiện
ở nhiều phương diện: Sự xuất hiện liên tục của các thành phần sở hữu như sở hữu
nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu toàn dân, thậm chí sở hữu hỗn hợp, ngày càng
có nhiều của cải vật chất và tài sản tinh thần được phân phối theo nhu cầu hoặc
thứ tự ưu tiên, căn cứ vào nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội hoặc chủ nghĩa cộng
sản, sự chăm sóc toàn diện của xã hội tư sản đối với người nghèo, người thất
nghiệp, trẻ em vô gia cư, người bệnh, người khuyết tật... Tất nhiên, đây vẫn
chưa được coi là chủ nghĩa xã hội, mà mới chỉ là những động thái đi theo hướng
này.
Về bản chất, nhân loại đã
hoàn toàn từ bỏ quan điểm tự do hóa thị trường (trừ các nhà cải cách tự do
Nga), mà tập trung điều tiết sản xuất, lưu thông, tiêu thụ và tất cả các lĩnh
vực trong xã hội. Ngày nay, nguyên tắc tiêu dùng của chủ nghĩa cộng sản hay chủ
nghĩa xã hội đã đóng vai trò chủ đạo trong lĩnh vực sản phẩm thông tin và một
bộ phận sản phẩm tinh thần. Tổ chức Công đoàn khu vực Mỹ (facsio) đã suy tính
và gọi Tổng thống Mỹ Barack Obama - người cứu vớt chủ nghĩa tư bản - là “người
cộng sản”. Bởi vì ông đã từng hai lần trong 1 ngày phân phát lương thực cho
những người thất nghiệp đói khát vào thời kỳ khủng hoảng lương thực, và còn đưa
giới chóp bu tài chính vào tù. Ngoài ra, từ rất lâu họ cũng đã gọi các nước tư
bản như Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sỹ ,
Canađa là các
nhà nước cộng sản.
Nhìn nhận một cách khách
quan, mặc dù tốc độ phát triển chung của thế giới vẫn còn chậm, nhưng thế giới
đang tiến theo hướng chủ nghĩa xã hội. Vấn đề duy nhất là, chủ nghĩa tư bản có
kiềm chế lâu dài sự tiến bộ của văn minh nhân loại hay không?
2. Chủ nghĩa tư bản hiện
đại đã chín muồi để trở thành chủ nghĩa xã hội hay chưa?
Rốt cuộc, ai hay điều gì
đã thúc đẩy nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội? Đây là một câu hỏi nảy sinh
một cách tự nhiên. Câu trả lời là, lịch sử được tạo ra bởi con người hoặc các
chủ thể kinh tế - xã hội. Cơ sở vật chất chỉ là điều kiện khách quan để duy trì
tồn tại xã hội, còn tương lai phát triển của nó lại được quyết định bởi chủ thể
kinh tế - xã hội - sức sống của quốc gia, trong đó bao gồm tính tích cực của
các cơ quan lập pháp và hành pháp của chính quyền đương đại, các nhà hoạt động
chính trị, các nhà lý luận khoa học xã hội, tầng lớp lãnh đạo, truyền thông...
Xã hội tư bản chủ nghĩa
quá độ sang xã hội xã hội chủ nghĩa trước tiên phụ thuộc vào chính bản thân nó,
nói chính xác hơn liên quan đến tình hình thực tế của nó, đến cuộc đấu tranh
giai cấp mạnh mẽ giữa giai cấp tư sản, nhân dân lao động và giai cấp cầm quyền.
Nhân dân lao động đấu tranh cho lợi ích kinh tế và quyền lợi chính trị của bản
thân mình. Giai cấp cầm quyền chịu áp lực của các điều kiện khách quan, để giải
quyết những xung đột kinh tế, xã hội, chính trị nghiêm trọng, chỉ có thể chuyển
đổi theo mô hình của chủ nghĩa xã hội. Điều không chắc chắn và gây tranh cãi
nhất là khi nào và với phương thức nào chủ nghĩa xã hội sẽ thay thế chủ nghĩa
tư bản. Để trả lời cho những câu hỏi này, chúng ta phải hiểu một cách chính xác
các phép biện chứng chủ quan và khách quan trong quá trình vận động của lịch
sử, hay trong sự phát triển của xã hội loài người.
Phần mở đầu của bài viết
đã đề cập đến việc nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội - một xu hướng không
thể cưỡng lại, nhưng điều này không có nghĩa là ở tất cả các nước tư bản chủ
nghĩa phát triển, các điều kiện khách quan để chủ nghĩa tư bản quá độ sang chủ
nghĩa xã hội đều đã chín muồi. Điều này còn liên quan đến lực lượng sản xuất,
trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, mức độ xã hội hóa sản xuất và khả năng
ngăn chặn các cuộc chạy đua vũ trang ở tất cả các nước trên thế giới, các nước
có thể đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân hay không... Ngay sau khi kết thúc
Chiến tranh thế giới thứ hai, Stalin đã bắt đầu nhấn mạnh điều này, tiếc là các
chính trị gia ngày nay đều đã quên điểm này, mà chỉ tập trung vào phê bình ông.
Đáng chú ý là, cuộc chiến này có thể trở thành phương hướng thực tế nhất cho
cuộc đấu tranh của nhân loại vì tương lai của chủ nghĩa xã hội. Nói cách khác,
tất cả những điều kiện để chuyển đổi theo nguyên tắc chủ nghĩa xã hội đều đã
sẵn sàng. Những gì chưa sẵn sàng quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ là các yếu tố
chủ quan hoặc nhân tạo. Chúng ta nên hiểu rõ về: 1) Tình trạng ý thức xã hội
của xã hội tư bản chủ nghĩa. Nó phục tùng nghiêm ngặt giai cấp bóc lột và các
nhóm xã hội khác. Những gì họ bảo vệ chỉ là lợi ích kinh tế và lợi ích chính
trị của cá nhân; 2) Tình hình bản thân người bị bóc lột và giai cấp mà quyền
lợi của họ bị hạn chế. Họ buộc phải nắm được quyền lực kinh tế và chính trị
trong tay mình, đồng thời thúc đẩy sự phát triển lịch sử theo nguyên tắc xã hội
mới; 3) Sự hiện diện hay không hiện diện của các nhà lý luận và nhà tư tưởng.
Họ có thể dựa trên lý luận khoa học hướng dẫn các quốc gia tiến hành xây dựng
xã hội xã hội chủ nghĩa trong không gian toàn cầu; 4) Tình hình sắp xếp, bố trí
của lãnh đạo liên minh công đoàn của người lao động, đảng công nhân, đảng nhân
dân, các lãnh tụ của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội của các nước, và năng
lực lãnh đạo của họ đối với cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội;
5) Liệu tất cả các thành
viên bảo vệ chủ nghĩa xã hội có thể duy trì được sự thống nhất cần thiết trong
hành động thực tế để giành chiến thắng ở từng quốc gia và trên toàn thế giới.
Trong thực tế, chúng ta
đã chứng kiến ví dụ điển hình về sự tồn tại và thất bại của chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô. Các nhà khoa học và bình luận chính trị đã nhiều lần bày tỏ, sự thất
bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô không phải do nguyên nhân kinh tế, mà là ở
cách thức quản lý bất hợp lý của giai cấp cầm quyền Liên Xô. Do đó, đặc tính
khách quan của chủ nghĩa xã hội không thể dẫn đến sự phá sản mang tính lịch sử
của hệ thống tư tưởng xã hội chủ nghĩa, mà trái lại, nó chỉ chứng minh những
mâu thuẫn mang tính đối kháng giữa lãnh đạo cấp cao với tư cách là nhân tố chủ
quan của xã hội xã hội chủ nghĩa và các điều kiện khách quan của chủ nghĩa xã
hội.
Giai cấp cầm quyền Liên
Xô là yếu tố chủ quan của xã hội Liên Xô. Xét về quy mô tuyệt đối, Liên Xô có
quyền lực kinh tế đứng thứ 2 thế giới, khoa học tiên tiến nhất thế giới, có
trình độ giáo dục cao nhất, đội ngũ lao động chuyên nghiệp nhất. Giai cấp cầm
quyền và “phe cải tổ” khi đối mặt với vấn đề tư bản toàn cầu có ý định phá hoại
chủ nghĩa xã hội, ban đầu đứng ở lập trường vô cùng bảo thủ, sau đó mới biến
đổi. Đây là yếu tố biện chứng chủ quan, khách quan của Liên Xô khi chuẩn bị và
triển khai phong trào phản cách mạng tư sản. Những “nhà cải tổ” của Nga cho đến
nay vẫn còn che giấu sự thật lịch sử, lừa dối người dân Nga. Phong trào phản
cách mạng tư sản này theo đuổi chủ nghĩa tư bản đen tối, gợi nhớ đến chủ nghĩa
tư bản ở Châu Âu và Mỹ vào thế kỷ XVIII.
Những nhà cải cách Nga
hiện nay cho rằng, họ đang sửa đổi “tính phức tạp của lịch sử”, nhưng thực ra
là đang trở về với thời kỳ tích lũy tư bản nguyên thủy.
3. Những gì chủ nghĩa tư
bản đem lại cho nhân loại là sự hủy diệt
Chúng ta phải tiến hành
đánh giá riêng biệt điều kiện khách quan của chủ nghĩa tư bản thế giới. Tại sao
chủ nghĩa tư bản đã “chuẩn bị sẵn sàng” quá độ sang chủ nghĩa xã hội? Phe cải
tổ của Liên Xô, phe dân chủ của Nga và nhiều nhà lý luận mácxít đã đáp ứng được
luận điểm của Lênin liên quan đến việc chủ nghĩa tư bản bắt đầu “mục nát” và
“suy tàn” sau khi bước vào giai đoạn chủ nghĩa đế quốc.
Những nhà phê bình Lênin,
từ quan điểm của bản thân, đã phân tích chủ nghĩa tư bản bằng cách khảo sát thị
trường tư bản chủ nghĩa, mà không xem xét tác dụng của nó từ góc độ vai trò
trong lịch sử phát triển của văn minh nhân loại. Họ thậm chí không đề cập đến
mức độ hài lòng đối với cuộc sống của người dân, lại càng không xem xét vấn đề
phát triển tinh thần từ quan điểm của toàn nhân loại. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra ở
đây đã vượt ra khỏi phạm trù nhận thức của giai cấp tư sản, nó chỉ ra rằng quy
luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản - sự chiếm hữu giá trị thặng dư khiến
cho nhiệm vụ chủ yếu của nhân loại tự động bị bỏ qua: Đáp ứng thực tế cơ hội
việc làm cho tất cả mọi người và nhu cầu hợp lý của mọi thành viên trong xã
hội.
Như chúng ta đều biết,
trong xã hội tư bản chủ nghĩa, có một lượng lớn người thất nghiệp, đói nghèo,
mắc bệnh nan y, trẻ em đường phố... (tình trạng này hiện cũng rất phổ biến ở
Nga). Chủ nghĩa tư bản là một giai đoạn phát triển trong lịch sử văn minh nhân
loại, chúng ta nên đánh giá nó dựa trên các chỉ số cơ bản của cuộc sống con
người. Xuất phát từ quan điểm này, Lênin và các học giả khác nghiên cứu chủ nghĩa
đế quốc là hoàn toàn đúng đắn; chủ nghĩa tư bản là hệ thống xã hội “mục nát”,
buộc phải rút khỏi vũ đài lịch sử, điều đáng thảo luận chỉ là phương thức xây
dựng và thời gian hoàn thành xã hội mới.
Nếu như những người phản
đối tư tưởng cộng sản chủ nghĩa đưa ra khái niệm “xã hội hậu tư bản”, có lẽ sẽ
không ai phản đối việc tìm hiểu về xã hội này. Nhưng cho đến nay, mệnh đề như
vậy không đứng vững được. Tôi đặt câu hỏi cho những nhà lý luận tư sản, những
nhân sĩ thuộc giai cấp tư sản, những “nhà cải cách” của Nga và những người quan
tâm đến điều này: “Hậu chủ nghĩa tư bản nên là chế độ xã hội gì?”
Có lẽ mọi người đều hiểu
rõ, chủ nghĩa tư bản chắc chắn sẽ không tồn tại vĩnh cửu. Vậy hậu chủ nghĩa tư
bản nên là xã hội gì? Làm thế nào để có thể chỉ rõ sự “mục nát” của chủ nghĩa
tư bản? Về vấn đề này, một số lượng lớn sách chuyên khảo đã đưa ra câu trả lời.
Chỉ cần bạn muốn tìm hiểu, sẽ có rất nhiều thông tin cung cấp cho bạn, bài viết
này chỉ đề cập đến sự “mục nát” của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đầu tiên, để phân chia
lãnh thổ, tranh giành tài nguyên và xưng bá thế giới, chủ nghĩa tư bản đã khiến
cho nhân loại rơi vào các cuộc chiến tranh thảm khốc. Nhà chiêm tinh R.Dular đã
cố gắng thông qua sự sắp xếp của các hành tinh, để tìm ra nguyên nhân của 59
cuộc chiến tranh lớn làm 120 triệu người thương vong xảy ra từ năm 1700 đến năm
1992. Tuy nhiên, lỗi của chiến tranh không nằm ở các hành tinh, mà nằm ở xã hội
tư bản chủ nghĩa của thời đại chúng ta. Xã hội tư bản chủ nghĩa là thủ phạm duy
nhất. Nhờ “bó gậy” (fasces)1 của Mỹ, vũ khí hạt nhân bắt đầu được sản xuất hàng
loạt dưới hệ thống tư bản chủ nghĩa, bất cứ lúc nào cũng có thể hủy diệt mọi
sinh mạng, thậm chí có thể làm đảo lộn Trái Đất. Lẽ nào đây không phải sự “mục
nát”?
Thứ hai, trong hệ thống
tư bản chủ nghĩa, giai cấp thống trị đã xây dựng lại một xã hội tiêu chuẩn, với
vô số “vị thần tối cao” đang sống và gây ra sự đói khát cho hàng trăm triệu con
người. Là tác giả của rất nhiều bộ sử thánh kinh - bác sĩ A.I.Oparin trong
chương V của tác phẩm lịch sử Đá khóc của mình đã nhắc đến, số liệu thống kê
của Liên hợp quốc cho thấy, nếu như 1/3 dân số thế giới giành được những thực
phẩm đủ số lượng và chất lượng, vậy thì 1/3 số dân khác tạm được ăn no, còn 1/3
cuối cùng sẽ phải chịu đói.
Thứ ba, A.I.Oparin cho
rằng, sự đói khát đáng sợ nhất là sự đói khát về tinh thần. Các hệ tư tưởng xã
hội mà giai cấp thống trị xây dựng và bảo vệ chỉ hoàn toàn vì lợi ích riêng của
họ. Các đầu sỏ chính trị và cơ quan chính phủ được bổ nhiệm hoàn toàn xuất phát
từ tư lợi, thông qua công cụ, hình thành nên ý thức hệ xã hội chỉ đảm bảo quyền
lợi của bản thân, xa rời nhu cầu của người dân lao động và những thành tựu văn
hóa tinh thần của nhân loại. Những kiến thức nhân loại tích lũy không được sử
dụng. Văn hóa và phương thức sinh hoạt của giai cấp tư sản khiến con người quay
trở lại với thế giới động vật, tạo ra sự thù hận giữa con người với con người:
đố kỵ, ngoại tình, tội ác, tàn sát, mâu thuẫn gia đình, bán con, xung đột xã
hội, chủ nghĩa khủng bố... Sự đói khát về cả tinh thần và thể chất chính là
nguyên nhân dẫn đến những sự việc khủng khiếp nhất trên trái đất (buôn bán ma
túy, nội tạng,...). Giai cấp tư sản tồn tại và phát triển dựa vào những người
bị bóc lột. Mặc dù những người dân bình thường cũng có được một số lợi ích,
nhưng cũng chỉ là những miếng “thức ăn thừa” mà thôi. Điều này không thể hiện
sự “mục nát” của xã hội tư bản chủ nghĩa đương đại hay sao? Một xã hội như vậy
có nên tiếp tục tồn tại?
Thứ tư, lần đầu tiên
trong lịch sử nhân loại chủ nghĩa tư bản làm xuất hiện một hiện tượng đáng sợ
là thất nghiệp, từ đó vi phạm nền tảng cơ bản của nền văn minh nhân loại. Các
triết gia đã nhiều lần nhấn mạnh tầm quan trọng của lao động, chỉ có lao động
mới có thể phân biệt con người từ trong thế giới động vật, ngay cả khi chúng ta
nhìn vào nguồn gốc của con người từ góc độ tôn giáo, thì quan điểm này vẫn
không mất đi sự chính xác. Con người trong tình trạng thất nghiệp sẽ bị suy
thoái về thể chất, tinh thần, các quan điểm về giá trị gia đình bị phá hủy, khả
năng sinh sản suy giảm, số lượng người bệnh tăng lên, mức sống giảm thấp, sức
sống của xã hội suy yếu dần. Đó chính là sự “mục nát” của xã hội, là sự suy
giảm về vật chất và tinh thần của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Thứ năm, cùng với sự xuất
hiện của hiện tượng thất nghiệp, chủ nghĩa tư bản chứa đựng một nền kinh tế hủy
diệt đạo đức lao động xã hội và hệ thống đạo đức tinh thần dị thường. Các quy
luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản - sự chiếm hữu giá trị thặng dư - tạo
nên ý thức hệ của xã hội tư bản chủ nghĩa: Không làm mà hưởng, buôn một lãi
mười, lòng tham không đáy, tàn nhẫn vô tình, và những tội phạm kinh tế bao gồm
cả nhận hối lộ... Cơ chế khích lệ và tiêu chuẩn đạo đức của xã hội tư bản chủ
nghĩa phản ánh tiêu chuẩn xã hội của “con người kinh tế”. Tiêu chuẩn này không
phải là tái sản xuất của cải, mà phụ thuộc vào tài sản sở hữu và tiêu thụ những
gì giành được bằng những phương pháp và thủ đoạn bất hợp pháp.
“Con người kinh tế” của
giai cấp tư sản là nhóm người sinh tồn dựa vào bóc lột những người lao động
chân tay và lao động trí óc, họ không cần bỏ sức lực vẫn có được thu nhập
“khủng”, tiêu chuẩn đạo đức của họ không thể so sánh với những tiêu chuẩn phổ
quát. Tồi tệ nhất là cuộc sống suy đồi của nhóm “công tử ăn chơi” hay thế hệ
con cháu của các “ông chủ” và những nhân vật của xã hội thượng lưu trong giới
văn hóa, chính trị..., luôn được các phương tiện thông tin đại chúng tán
thưởng, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến thế hệ thanh niên và các nhóm người
khác trong xã hội. Mục đích của họ chỉ là hóa giải triệt để nhân tính của mỗi
con người, ăn mòn nhân cách. Về vấn đề này, chúng ta phải hoàn toàn cảnh giác, đặc
biệt là những người trẻ tuổi.
Tôi giảng dạy nhiều năm ở
các trường đại học, so với thời Xôviết, có thể thấy rất nhiều ví dụ về việc bản
chất con người bị bóp méo. Cho dù xét từ góc độ đạo đức lao động, tu dưỡng kiến
thức, hay từ phẩm hạnh đạo đức, nhân cách giới trẻ bị ăn mòn nhiều không kể
xiết. Đáng sợ nhất là hiện tượng nghiện hút ở lứa tuổi thanh thiếu niên. Theo
ước tính của các chuyên gia, 1/3 thanh thiếu niên nghiện hút. Ma túy làm hỏng
tương lai của nhân loại, và chủ nghĩa tư bản có được lợi nhuận kếch xù từ thảm
họa này của nhân loại.
Chúng ta có thể liệt kê
ra rất nhiều vấn đề khác của xã hội tư bản chủ nghĩa, như:
1) Khủng hoảng kinh tế
mang tính chu kỳ;
2) Thảm họa sinh thái sắp
xảy ra; 3) Độc quyền toàn diện của chính quyền và quyền sở hữu; 4) Vì tính chất
cạnh tranh tư bản tàn khốc và giữ bí mật thương mại của những phát minh mới,
công nghệ mới, buộc phải ngăn chặn sự phát triển của tiến bộ khoa học công
nghệ; 5) Phát xít hóa hành vi của giai cấp quản lý tư bản toàn cầu ở các nước
tư bản. Đây là hiện thực khách quan ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện đại. Chúng
đã chứng kiến quá trình “thai nghén” sâu sắc chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa tư
bản, “bóng ma” của chủ nghĩa cộng sản đã “dạo chơi” trên toàn thế giới.
4. Tại sao chủ nghĩa xã
hội không thể đến sớm?
Đầu tiên phải đặt câu hỏi
tại sao chủ nghĩa xã hội không thể thay thế chủ nghĩa tư bản ở tất cả mọi nơi?
Về vấn đề này, hiện tại không thể trả lời một cách nhanh chóng và rõ ràng được,
mà chỉ có thể đưa ra đáp án sau khi tiến hành phân tích những mâu thuẫn tích
lũy hàng ngàn năm của xã hội loài người và những xu hướng phát triển trong lịch
sử văn minh nhân loại. Đồng thời, câu trả lời cũng liên quan đến một vấn đề
khác, cụ thể là, phép biện chứng chủ quan và khách quan của sự phát triển văn
minh nhân loại. Tôi muốn nhắc lại rằng, lịch sử được tạo ra trong các hoạt động
mang tính chủ quan của nhân loại, kết quả khách quan có lẽ là quan hệ kinh tế
của toàn xã hội, và hạnh phúc của con người trong các lĩnh vực của cuộc sống
được quyết định bởi hành vi của con người.
Tất cả những vấn đề này
đã sớm tồn tại, nhưng đáng tiếc, rất nhiều nhà mácxít, các học giả nghiên cứu
chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa xã hội, các chính trị gia đều chưa giải quyết
được. Họ thường phóng đại những hy vọng đối với quy luật kinh tế khách quan,
cho rằng nó chắc chắn sẽ đưa đến sự thành công của chủ nghĩa xã hội. Quy luật
kinh tế khách quan không tự động sinh ra, chỉ có dựa vào sự dẫn dắt của con
người, của quần chúng, các đảng chính trị, các tổ chức công đoàn, các chính
khách... Vì sự kỳ vọng vượt qua chủ nghĩa tư bản, các nhà lãnh đạo Liên Xô đã
tự mê hoặc mình bằng những ảo tưởng rằng quy luật có sức mạnh ma thuật. Đồng
thời, chủ nghĩa Mác kêu gọi mọi người hành động, nhưng họ vẫn chỉ đợi chờ một
cách nôn nóng.
Với nhân tố chủ quan là
thúc đẩy đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội, rất tiếc hiện nay trên thế giới vẫn
chưa có một lực lượng chính trị nào có thể khiến chủ nghĩa xã hội thành công,
nhanh chóng thay thế chủ nghĩa tư bản. Ở các nước tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư
sản đã mua đứt các tổ chức công đoàn, đánh bại các đảng cộng sản, đảng công
nhân, hơn nữa về mặt tư tưởng cũng đã xóa bỏ vũ trang của họ. Hiện nay, ý thức
hệ bị hệ thống đạo đức tư tưởng của giai cấp tư sản khống chế, các học giả
mácxít có uy tín trên thế giới chỉ chiếm số ít. Những người tự xưng là “tín đồ”
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đều chưa từng đọc qua các tác phẩm
nổi tiếng của các nhà mácxít như C.Mác, V.I.Lênin. Những nhà lãnh đạo của các
đảng cộng sản, đảng xã hội và đảng dân chủ xã hội làm việc trong chính quyền
của giai cấp tư sản, trên thực tế vẫn chưa sẵn sàng hiện thực hóa chủ nghĩa xã
hội, chỉ tiến hành “cải thiện” chủ nghĩa tư bản, hoặc phục hồi “cái xác” xã hội
đã ngừng phát triển.
Viện Khoa học quốc gia Mỹ
dưới sự trợ giúp của NASA, đã công bố dự báo hướng phát triển 2012-2020 mang
tên “Mối đe dọa không gian thời tiết: Hậu quả kinh tế và xã hội”. Các nhà khoa
học Mỹ không loại trừ khả năng sự dịch chuyển các cực từ của Trái Đất và hiện
tượng ấm lên toàn cầu có thể dẫn đến phần lớn Bắc Mỹ, một số nước Châu Âu, kể
cả Nhật Bản sẽ bị nhấn chìm, các khu vực an toàn nhất có lẽ là phần Châu Âu của
Nga, Ucraina, Tây Siberia... Đây chính là nguyên nhân mà Mỹ, Anh và Đức muốn có
một chỗ đứng vững chắc trước hết ở Apganixtan, Balkans, và nay là Ucraina.
Người đọc có thể đặt ra
câu hỏi: “Khí tượng vũ trụ” có liên quan gì đến chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã
hội? Vấn đề là, con người muốn loại bỏ các mối đe dọa đó chỉ có thể dựa vào trí
tuệ tập thể, xuất phát từ lợi ích của tất cả các quốc gia và dân tộc, không sử
dụng tiền bạc vào các vụ tàn sát đồng loại. Trên cơ sở xây dựng chính sách, chủ
nghĩa đế quốc chỉ xem xét lợi ích của một số quốc gia, chỉ muốn sử dụng vũ lực
để uy hiếp các nước khác thì không thể đạt được mục tiêu trên. Khi các hệ thống
xã hội ở hầu hết các nước đều lấy lợi ích tổng thể làm nền tảng, tính tổ chức,
tính kế hoạch đều rất mạnh, mới có thể hoàn thành mục tiêu và chỉ chủ nghĩa xã
hội mới làm được.
5. Phân tích mang tính
phê phán về phong trào xã hội chủ nghĩa và phong trào dân chủ
Phải thẳng thắn thừa nhận
rằng, do tư bản toàn cầu với gia tộc Rockefellers, gia tộc Rothschilds, gia tộc
Abramovich, gia tộc Prokhorov, các câu lạc bộ Bilderberg và chính phủ các nước
trên thế giới dẫn đầu, trong tình hình thúc đẩy mạnh mẽ các cuộc đấu tranh về ý
thức giai cấp trên đấu trường quốc tế, khiến cho đảng viên của đảng cộng sản và
những “người xã hội chủ nghĩa” bị “dồn vào đường cùng”, trong bối cảnh những gã
khổng lồ tư bản toàn cầu đang tổ chức “tang lễ”, quần chúng lao động và những
người lãnh đạo chính trị của mình lại không được mạnh mẽ, mà chờ đợi hoặc rút
lui. Nhiều tư tưởng xã hội chủ nghĩa liên quan đến sở hữu nhà nước, điều tiết
kinh tế quốc gia, đấu tranh chống đói nghèo và chống thất nghiệp... đã được
những chủ trương của chủ nghĩa tư bản hiện thực hóa. Khoảng cách giàu nghèo đã
trở nên khá gần nhau ở một số nước tư bản chủ nghĩa phát triển (ngoại trừ Nga).
Điều khó tin là, họ đã khéo léo sử dụng những ngôn từ và phương pháp như “quan
hệ đối tác xã hội” giữa các giai cấp, công bằng xã hội của xã hội tư bản chủ
nghĩa đương đại để lung lạc lòng người. Đây là dấu hiệu cho sự thất bại của
chúng ta, nhưng thừa nhận thất bại và tìm ra nguyên nhân là sự khởi đầu cho con
đường dẫn đến chiến thắng.
Từ một góc độ khác, phong
trào cộng sản chủ nghĩa, giống như chúng ta thường hiểu vào thời đại của C.Mác,
rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, phần lớn những người cộng sản nguyện ngồi chờ
đợi “sự bố thí” của giai cấp tư sản. Ngoài ra, phong trào cộng sản chủ nghĩa
còn bị tư bản phân hóa thành những nhóm cạnh tranh lẫn nhau, đôi khi còn xung
đột, mâu thuẫn nhau. Một số nhà hoạt động chính trị mácxít tự xưng không coi
giai cấp tư sản mà coi những đồng chí của mình là đối thủ đấu tranh chủ yếu về
tư tưởng - điều đó đã được một số lớn các học giả, các chính trị gia và các nhà
lý luận ủng hộ.
Chủ nghĩa Mác sát với
thực tế, nếu muốn thành công buộc phải có lãnh tụ thực tài, dũng cảm phi
thường. Đáng tiếc là, thời điểm đó ở Nga và các nước tư bản chủ nghĩa phát
triển đều chưa có những nhà lãnh tụ như Mác, Lênin, Fidel Castro. Những nhà
lãnh đạo như vậy sẽ nhận thức được mâu thuẫn thực tại giữa các nhà lý luận
mácxít cao cấp và các chính khách uy tín (hay những chính trị gia có niềm tin
vào việc thoát ra khỏi những bế tắc chính trị - xã hội). Trong thời đại thông
tin, nhà lãnh đạo nên lấy lãnh tụ Hugo Chavez làm khuôn mẫu, những nhà mácxít
cần có một người lãnh đạo như vậy.
Chúng ta có thể hiểu được
nguyên nhân giai cấp tư sản chống lại chủ nghĩa xã hội, nhưng không thể chấp
nhận tư tưởng của các đầu sỏ chính trị và các chủ doanh nghiệp, họ tích lũy
được của cải khổng lồ dựa trên việc chiếm hữu thành quả lao động của người
khác. Từ quan điểm của giai cấp tư sản, điều đó được hiểu là nên khuyến khích
sử dụng mọi phương pháp để bảo vệ cho lợi ích giai cấp của chính họ. Cái gọi là
chân lý khoa học này vô cùng khó hiểu. Từ các rao giảng về lý luận của chủ
nghĩa cộng sản khoa học của các nhà chính trị và nhà kinh tế học Nga, chúng ta
có thể hiểu được chứng quá khích chống chủ nghĩa xã hội có thể coi là một căn
bệnh về tâm lý. Lập trường học thuật của họ không liên quan gì đến khoa học.
Mọi người đều biết, nhiều nhà khoa học vĩ đại trên thế giới, bao gồm cả Albert
Einstein, trong quá khứ hay hiện tại đều đã có những khẳng định tích cực về
Mác, Lênin và chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, ở Nga và một số
nước xuất hiện nhiều quan điểm chống chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa Mác.
Những học giả công khai đứng về phía bảo vệ lợi ích của tư bản, trong nghiên
cứu học thuật đã vận dụng những phương pháp suy đoán sai lầm. Phương thuốc tốt
nhất để chữa trị căn bệnh tinh thần chống chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa
cộng sản, đó là nghiên cứu kỹ lưỡng tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các nước trên
thế giới, và thực tiễn xã hội chủ nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm
cả Liên Xô.
Một bi kịch là, những nhà
mácxít của Liên Xô đã rất hài lòng với chế độ xã hội chủ nghĩa và tuyên truyền
tích cực lý luận về sự biến mất của giai cấp và đấu tranh giai cấp, nhưng khi
chủ nghĩa tư bản phục hồi, họ không thể nhanh chóng đưa ra đề xuất với quần
chúng nhân dân mô hình thay thế xã hội tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là những nhà
mácxít tuân theo lập trường khoa học không thể phát hiện kịp thời tất cả những
nguy hiểm khi tăng tốc quá độ lên cái gọi là kinh tế thị trường, loại kinh tế
thị trường này về bản chất là chủ nghĩa tư bản. Họ không thể “bơm” vào ý thức
quần chúng một cách nhanh chóng thế giới quan khoa học, những nguyên nhân giống
như thế này còn rất nhiều.
Trước hết, số những nhà
mácxít tin tưởng rằng lý luận của Mác chính xác là vô cùng ít ỏi. Những nhà lý luận
khoa học xã hội của Đảng Cộng sản Liên Xô, vẫn chưa thực sự nắm được chân lý
của chủ nghĩa Mác. Mặc dù điều này thật xót xa, nhưng nó là sự thật. Những
nghiên cứu học thuật của các học giả bị kìm nén, áp đặt, đương nhiên sẽ không
tạo ra những kết quả tốt.
Thứ hai, những “quản đốc”
và những nhà “tiên phong” cải cách khiến những nhà bảo vệ chủ nghĩa xã hội trở
tay không kịp. Họ phá hủy trắng trợn kinh tế xã hội chủ nghĩa, dẫn đến sự thay
đổi về tâm lý sau khi quá độ sang nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, do
con người ảo tưởng về “lợi ích chung”. Phương pháp quản lý xã hội chủ nghĩa của
Liên Xô bị những “nhà cải tổ” và “phe cách tân” tầm thường hóa, khiến hầu hết
công dân Liên Xô đều tin rằng mọi người cũng có thể trở thành triệu phú, có
cuộc sống sung túc, đều có thể lái xe “Volga” và “Mercedes Benz” đi trên đường,
nhưng không có sự cảnh báo đối với những “căn bệnh” khó chữa của xã hội tư bản
chủ nghĩa. Sự khó chịu sau khi “say rượu” đến rất nhanh, cho đến nay người dân
vẫn sống trong “bóng tối” tâm lý.
Thứ ba, bản thân các “nhà
chủ nghĩa xã hội” khó có thể loại bỏ một cách hiệu quả những yếu tố tiêu cực
trong tư tưởng về chủ nghĩa xã hội chẳng hạn như chủ nghĩa giáo điều... Chúng
bắt nguồn từ sự kiểm soát chặt chẽ của lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô đối với ý
thức hệ và khoa học xã hội, hầu hết công dân Liên Xô đều không nghĩ ngợi gì mà
tin tưởng vào Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, quan tâm đến việc hoàn thiện
chủ nghĩa xã hội chứ không phải việc nó bị lật đổ. Các xu hướng trái ngược nhau
do những nguyên nhân chủ quan gây ra trong xã hội Liên Xô cho thấy, xã hội xã
hội chủ nghĩa vốn ở vị trí thống trị trước đây đang dần bước vào ngõ cụt lịch
sử, nguyên nhân không phải là những yếu tố khách quan, thuộc hệ thống xã hội
chủ nghĩa, mà nằm ở năng lực thấp kém của những “nhà xây dựng” chủ nghĩa cộng
sản.
Lý do chính dẫn đến sự
hủy diệt của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô là sự thiếu hiểu biết về kinh tế và
chính trị của các “kiến trúc sư” và “nhà quản lý” cải cách, là sự bảo thủ của
các nhà lãnh đạo Đảng thế hệ trước và học giả tiền bối của chủ nghĩa Mác. Ngày
nay, những “nhà chủ nghĩa xã hội” phản đối tư bản phân thành hai bên đối lập
nhau, đều tự xưng là “vị cứu tinh” duy nhất của chủ nghĩa xã hội, nhưng lại
không có ai tham gia vào công tác phát triển lý luận xã hội chủ nghĩa trong môi
trường mới. Thiếu nỗ lực trong vấn đề này khiến cho chủ nghĩa xã hội không thể
thành công.
Nhiệm vụ cấp bách của
phong trào xã hội chủ nghĩa là sự đoàn kết các phe đối lập cánh tả. Khi đạt
được sự đoàn kết và nắm được chính quyền, chúng ta hy vọng lực lượng này sẽ đi
tới một thỏa thuận về sự chia sẻ quyền lực và xóa bỏ các phe đối lập.
-----------------------------------------------
Dịch và hiệu đính: ThS Nguyễn Như Mai & Đỗ Khương Mạnh Linh
Dịch và hiệu đính: ThS Nguyễn Như Mai & Đỗ Khương Mạnh Linh
Theo Tạp chí Thông tin
khoa học lý luận chính trị, số 2/2016
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét