Trong lịch sử hàng ngàn năm, người Việt Nam hoàn toàn có quyền tự hào về
truyền thống dân tộc mình, nổi bật là truyền thống ngoại giao với nhiều vị sứ thần
tài trí, mưu lược, dũng cảm quên mình, hoàn thành mệnh vua, nghĩa nước. Có
nhiều vị sứ thần huyền thoại đến mức quân vương của nước thù địch cũng phải
kính phục phong hàm “lưỡng quốc trạng nguyên” như Mạc Đĩnh Chi (đời Trần)…Những
vị sứ thần này chẳng những không làm nhục quốc thể, mà còn tích cực trong đấu
tranh ngoại giao, sáng tạo sử dụng các “thuật ngoại giao” vừa linh hoạt, mềm
dẻo, vừa cứng rắn, kiên cường để tôn cao quốc thể, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
đi sứ sang Trung Quốc thời xưa mà không cầm chắc có ngày về…
Trong điều kiện lịch sử những năm 50 của thế kỷ XX, đồng chí Nguyễn Lương
Bằng (được goi với cái tên vừa thân thiết, vừa tôn kính là Sao Đỏ hay Anh Cả)
chẳng những đã phát huy được truyền thống tốt đẹp của các vị tiền bối sử thần
Việt Nam thủa trước, mà trên thực tế còn trở thành vị đại sứ đặc mệnh toàn
quyền đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ở Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa Đông Âu từ năm 1952 đến năm 1956.
Sang năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đã
bước vào giai đoạn tổng phản công buộc quân đội Pháp ở Đông Dương và Việt Nam
phải co cụm đối phó. Thế chủ động trên chiến trường đang thuộc về quân đội nhân
dân Đông Dương, chủ yếu là ở Việt Nam . Trong điều kiện đó, công tác
ngoại giao yêu cầu cần được mở rộng. Từ đầu năm 1947 đến đầu năm 1950, Chính
phủ ta chỉ mới đặt được cơ quan đại diện thường trú tại Băng Cốc, Rănggun và
Praha. Trước yêu cầu tăng cường đoàn kết quốc tế, ngày 14-1-1950 Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã ra lời tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với bất cử chính
phủ nước nào tôn trọng quyền bình đẳng, độc lập, tự chủ của Việt Nam . Tiếp ngay
đó, ngày 15-1-1950, Chính phủ ta ra tuyên bố công nhận Chính phủ Trung Quốc và
tỏ ý sẵn sàng thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ. Hưởng ứng tuyên bố của
Chính phủ ta, ngày 18-1-1950 Chính phủ Trung Quốc, rồi từ ngày 30-1-1950 trở đi
đến Chính phủ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu…lần lượt công nhận
và lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ ta. Riêng với Liên Xô, vào ngày
23-1-1950, thông qua Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc, Chính phủ Việt Nam gửi
công hàm cho Chính phủ Liên Xô, đề nghị thiết lập quan hệ, trao đổi ngoại giao
cấp đại sứ giữa hai quốc gia. Đồng thời, Chính phủ Việt Nam cũng thông báo và
đề nghị Chính phủ Liên Xô chấp thuận việc bổ nhiệm ông Nguyễn Lương Bằng làm
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam tại Liên Xô. Chính phủ Việt Nam mong muốn phía Liên Xô sớm bổ nhiệm đại sứ
tại Việt Nam .
Ông Grômưkô, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, đã trình công hàm của Chính phủ Việt
Nam lên I.V.Xtalin, nhưng
Xtalin đã “quyết định hoãn không chỉ việc cử Đại sứ Liên Xô ở Việt Nam , mà cả Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô”[1].
Cũng trong thời gian này, từ Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý định bí mật
thăm Liên Xô. Sau khi Liên Xô công nhận Chính phủ ta, Người lại có ý định sang
thăm chính thức Liên Xô, những những ý định đó vẫn chưa thực hiện được…Vì trước
đây Liên Xô và Xtalin chưa thật sự hiểu đầy đủ về cuộc kháng chiến của nhân dân
ta. Có thể đây là một lí do để Chính phủ ta chưa thể đặt Đại sứ quán ở Liên Xô
sau khi Liên Xô công nhận Chính phủ ta vào đầu năm 1950. Còn một lý do nữa cũng
không kém sức thuyết phục, là do sự tác động của Chính phủ Pháp vào Điện
Kremli…Vì những lý do này mà kế hoạch đi làm Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô của
đồng chí Nguyễn Lương Bằng, dự định vào tháng 7-1950 đã không thực hiện được.
Tình hình như vậy dần dần được cải thiện cùng với những vận động tích cực của
Đảng và Nhà nước ta. Ngày 3-2-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh sang thăm Liên Xô.
Chiến dịch Biên Giới (từ tháng 7 đến tháng 10 năm 1950) thắng lợi to lớn đã mở
thông đường ngoại giao sang Trung Quốc, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa,
dân chủ tiến bộ trên thế giới. Nhiều nước trên thế giới đã biết đến một Việt Nam
anh dũng đang ngày đêm chiến đấu đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, thu hút đông
đảo dư luận trên thế giới đồng tình, ủng hộ. Đây chính là những yếu tố quyết
định làm biến động trong quan hệ quốc tế
đến cuối năm 1951. Phải đợi đến đầu năm 1952, do nhiều yếu tố thuận lợi cho
cả Việt Nam
và Liên Xô, việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô ở cấp đại sứ mới
chính thức được thiết lập”[2]
Nhận được thông báo từ Chính phủ Liên Xô, ngày 8-3-1952, dưới sự chủ trì
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã họp và
trao nhiệm vụ Đại sứ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Liên Xô cho đồng chí
Nguyễn Lương Bằng.
Với tinh thần khiêm tốn, đồng chí Nguyễn Lương Bằng trình bày ý kiến tự
phê bình những hạn chế của mình như thiếu kinh nghiệm đối ngoại, không biết
tiếng Nga và nêu ý kiến Trung ương nên của đồng chí khác có năng lực hơn đảm
nhiệm công tác này. Nhưng Bộ Chính trị vẫn không thay đổi ý kiến. Thay mặt Bộ
Chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ: “Từ Hồ Chủ tịch trở xuống là đầy
tớ của dân. Đặt ở đâu thì làm ở đấy…”[3].
Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn những điều cần chú trọng khi làm đại sứ
như: “Đoàn kết nội bộ và đoàn kết với bạn; luôn luôn giữ quốc thể, giữ tinh
thần kháng chiến; phải chân thành với đồng chí Trung Quốc và Liên Xô”[4].
Nhận nhiệm vụ với tinh thần như người chiến binh nhận quyết tâm ra trận, sau
một thời gian ngắn làm công tác chuẩn bị, tháng 4-1952, đồng chí Nguyễn Lương
Bằng lên đường sang Liên Xô, trên cương vị Đại sứ đặc mệnh toàn quyền đầu tiên
của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa tại Liên Xô. Trước khi lên đường sang Liên
Xô, đoàn cán bộ Đại sứ quán Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh gặp
mặt. Người ân cần dặn dò: “Nhiệm vụ chủ yếu là làm sao để các đồng chí lãnh đạo
Đảng và Nhà nước Liên Xô hiểu được cuộc kháng chiến của chúng ta, tạo điều kiện
để hai Đảng, hai nước đoàn kết chiến đấu với nhau hơn, đông thời tuyên truyền
cuộc kháng chiến của ta để nhân dân Liên Xô hiểu rõ”[5].
Ghi nhớ lời dặn dò của Bác, đoàn cán bộ Đại sứ quán Việt Nam do đồng chí
Nguyễn Lương Bằng dẫn đầu rời chiến khu Việt Bắc lên đường sang Liên Xô, mở ra
những trang đầu tiên trong quan hệ ngoại giao Xô-Việt nói riêng và nền ngoại
giao Việt Nam nói chung.
Trên danh nghĩa Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô, nhưng thực chất
lúc này chúng ta chưa có cơ quan Đại sứ ở các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu,
nên đồng chí Nguyễn Lương Bằng là người thay mặt Đảng, Nhà nước ta giải quyết
mọi vấn đề trong quan hệ với Chính phủ các nước này. Như vậy, việc đồng chí
Nguyễn Lương Bằng được Trung ương Đảng cử làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền đầu
tiên của nước ta tại Liên Xô cũng đồng thời là vị đại sứ đặc mệnh toàn quyền
của Nhà nước ta đối với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, không phải trên danh
nghĩa , mà là trên thực tế. Đồng chí Nguyễn Lương Bằng-vị đại sứ đa quốc gia
đầu tiên của Việt Nam
trong lịch sử dân tộc.
Đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo đoàn đại sứ
nước ta sang Liên Xô lần đầu tiên này, với cương vị là Đại sứ đặc mệnh toàn
quyền, là nhận một trọng trách nặng nề của Đảng và nhân dân giao phó. Sau khi
quán triệt mục đích, nhiệm vụ của Bác Hồ và Trung ương về chuyến công tác đặc
biệt quan trọng này, việc tiếp theo phải làm là dự kiến chương trình, kế hoạch
hành động cụ thể để trình bày và thông qua với Trung ương Đảng. Ngay sau đó là
lựa chọn, bố trí, phân công công tác cho các thành viên trong đoàn. Đồng chí
Nguyễn Lương Bằng đã phối hợp với Bộ Ngoại giao làm công tác này. Đoàn sứ quán
lúc đó gồm 12 cán bộ, nhân viên. Trong đó có đồng chí Nguyễn Mạnh Cầm[6] và
Tạ Hữu Canh[7] đang học
ở Trung Quốc, nhập với đoàn. Tất cả nhân viên đại sứ quán, kể cả đồng chí đại
sứ đều hầu như chưa có nhận thức gì về công tác ngoại giao, trừ mộ người duy
nhất, đó là anh Nguyễn Đức Quỳ[8] đã
từng lại đại diện của Chính phủ ta tại Thái Lan. Tất cả chúng tôi đều gọi đồng
chí đại sứ là “Anh Cả” với tình cảm thân thương và quý trọng[9].
Anh cả Nguyễn Lương Bằng lãnh đạo đoàn cán bộ ngoại giao nước ta sang
Liên Xô lúc này gặp rất nhiều khó khăn và thách thức phải vượt qua. Vào những
năm đó, Liên Xô là đất nước rộng nhất thế giới, đứng đầu phe xã hội chủ nghĩa,
có vị thế rất cao trên trường quốc tế, đối trọng với phe tư bản chủ nghĩa…,
nhất là trong điều kiện bạn “vẫn còn băn khoăn” về con đường cách mạng Việt Nam
do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Hơn nữa, nhiệm vụ của đoàn thì lớn, nhưng
đoàn còn gặp rất nhiều khó khăn về tiếng Nga, về nghiệp vụ, về kinh phí và về nghệ thuật ngoại giao…Hầu hết tất cả
đều là mới mẻ, bỡ ngỡ. Trong điều kiện như vậy đòi hỏi công tác ngoại giao phải
hết sức cẩn trọng “chỉ sai một ly sẽ đi một dặm”. Bằng đức độ và tài năng khôn
khéo cũng như kinh nghiệm của mình, Anh Cả đã không phụ lòng tin cậy của Đảng
và nhân dân, Anh Cả đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
[1]
I.V.Bukhakin: Điện Kremli và Hồ Chí Minh 1945-1969 (bản dịch), lưu tại viện Hồ
Chí Minh , tr 8 (Hồ sơ gốc: ABNPF.FO 136.vn.29.n.197.g.31.n.180-18606).
[2] Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, Nxb Lí luận chính trị, H, 2006, tr 425-426
[3] Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, Sdd, tập 5, tr 173
[4] Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, Sdd, tập 5, tr 173
[5] Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, Sdd, tập 5, tr 197-198
[6] Đồng chí
Nguyễn Mạnh Cầm, sau này là nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tưởng Chính
phủ, Bộ trưởng Ngoại giao, Đại sứ Việt Nam tại Liên Xô.
[7] Đồng chí
Tạ Hữu Canh, sau này là nguyên Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa dân chủ Đức, đã
mất.
[8] Đồng chí
Nguyễn Đức Quỳ, sau này là nguyên Thứ
trưởng Bộ Văn hóa thông tin, đã mất.
[9] Xem:
Những năm tháng không thể nào quên của Nguyễn Mạnh Cầm trong sách “Đồng chí
Nguyễn Lương Bằng với cách mạng Việt Nam và quê hương Hải Dương, Nxb CTQG, H,
2009, tr 28-29.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét