Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

Độc lập dân tộc - nhìn từ góc độ văn hóa

Một quốc gia dân tộc độc lập với đầy đủ ý nghĩa của nó không chỉ dựa trên nền tảng độc lập chủ quyền lãnh thổ địa lý đã được luật pháp quốc tế và các quốc gia dân tộc khác thừa thận, mà quan trọng hơn, phải dựa trên sự độc lập về văn hóa.

Trên thực tế, độc lập về chủ quyền lãnh thổ dù là cơ sở, tiền đề quan trọng hàng đầu để làm nên độc lập chủ quyền của quốc gia, nhưng độc lập về văn hóa mới là căn cốt nhất để bảo đảm cho nền độc lập của quốc gia ấy được tồn tại, phát triển bền vững. Bởi vì, văn hóa- hiểu theo nghĩa sâu sắc nhất- chính là tất cả chiều dài lịch sử, chiều sâu truyền thống và toàn bộ những giá trị di sản văn hóa, tinh thần, đạo đức, phong tục, tập quán… của cả cộng đồng dân tộc được xây dựng, bồi đắp, lưu giữ, trao truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.  
Vui tết độc lập
Văn hóa là “sức mạnh mềm” của mỗi quốc gia. Vì vậy, bảo vệ văn hóa ngoài ý nghĩa là bảo tồn “sức mạnh mềm” của quốc gia dân tộc, mà sâu xa hơn, đó  là làm cho các giá trị của “sức mạnh mềm” không ngừng phát huy, lan tỏa để nền độc lập của quốc gia luôn được “cắm sâu” trên một nền tảng ổn định, gốc rễ bền vững. Trong thời đại toàn cầu hóa hiện nay, trong khi bản sắc văn hóa truyền thống của nhiều quốc gia dân tộc- nhất là những quốc gia dân tộc nhỏ bé, yếu thế- đang có nguy cơ bị thu hẹp, xóa nhòa, thậm chí bị hòa tan trước vấn nạn “xâm lăng văn hóa” của các nước lớn, các nước có tư tưởng bành trướng, sô vanh, thì việc giữ vững bản sắc văn hóa càng trở nên quan trọng, cấp thiết hơn bao giờ hết.
Từ trong tiềm thức sâu xa, người Việt luôn có tâm thế, ý thức bảo vệ những giá trị truyền thống lịch sử và bản sắc văn hóa của cộng đồng dân tộc mình. Từ xưa đến nay, ý thức giữ gìn nguồn cội dân tộc được ông cha ta thể hiện từ cách mang mặc, sinh hoạt, nếp sống, nghi lễ gắn liền với nghề nông và cộng đồng làng xã. Ý thức đó còn được thể hiện sâu đậm trong phong tục thờ cúng gia tiên, tín ngưỡng thờ cúng Quốc tổ Hùng Vương- các bậc tiền nhân đã có công khai sơn lập địa, đắp nền mở lối cho sự hình thành quốc gia đầu tiên của người Việt.
Đã bao đời nay, các thế hệ người Việt trao truyền cho nhau ý thức tự chủ “Mất nước nhưng không thể mất làng”. Hàm ý triết lý này là, dù chủ quyền lãnh thổ quốc gia bị kẻ thù xâm lược, thôn tính, nhưng “hồn cốt” của quốc gia dân tộc nhất quyết không thể bị đánh đổi, hòa tan. Vì làng xã không chỉ là nơi cố kết cộng đồng dân cư, mà chính là nơi hội tụ, bảo tồn, lưu giữ những giá trị văn hóa của tổ tiên, ông cha đã để lại.
Tiếng gọi Tổ quốc từ trái tim
Trong lịch sử, dân tộc Việt từng có gần một nghìn năm bị phương Bắc đô hộ, nhưng chúng ta vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa của dân tộc mình, nên không bị đồng hóa. Đó là nhờ ông cha ta đã kiên cường bám làng, thề nguyền sống chết với làng, tìm mọi cách để cất giấu, lưu giữ những gia phả, nghi thức, nghi lễ, luật lệ của làng, cương quyết không để cho kẻ thù cướp phá, tẩu tán, tiêu tan những di sản quý báu đó của quê hương.
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, các bậc danh nhân văn hóa, anh hùng xuất chúng của dân tộc ta luôn có ý thức, tầm nhìn sâu sắc về bảo vệ văn hóa nguồn cội của ông cha. Từ thế kỷ XV, sau khi đánh tan giặc Minh xâm lược, thay mặt vương triều nhà Lê và muôn dân Đại Việt, Nguyễn Trãi đã viết bản “Bình Ngô đại cáo” bất hủ, trong đó lời mở đầu có những câu hùng hồn về chủ quyền văn hóa của nước ta: “Như nước Đại Việt ta từ trước/ Vốn xưng nền văn hóa đã lâu/ Núi sông bờ cõi đã chia/ Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Lời tuyên bố đanh thép của Hoàng đế Quang Trung- Nguyễn Huệ “Đánh cho để răng đen/ Đánh cho để tóc dài… Đánh để cho sử biết nước Nam anh hùng là có chủ” trước sự hung bạo của quân Thanh xâm lược nước ta cuối thế kỷ XVIII, đã trở thành “lời hịch non sông” còn sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam.
Bởi vì “răng đen, tóc dài” không đơn giản chỉ là những bộ phận trên cơ thể của người Việt, mà hơn thế, đó là hình ảnh thân thương của đồng bào, là diện mạo văn hóa truyền thống của dân tộc.
Ở triết lý sâu xa hơn, lời hịch “Đánh cho để răng đen/ Đánh cho để tóc dài”- thực chất là lời quyết chiến, quyết đánh đuổi quân xâm lược đến cùng để những bảo toàn những giá trị gốc gác của người Việt, của linh hồn văn hóa truyền thống Việt.
Lời hịch ấy của người anh hùng áo vải Quang Trung- Nguyễn Huệ đã thức tỉnh tâm can, lay động lòng người, vì thế đã quy tụ, lôi cuốn được muôn dân đồng tâm hiệp lực thành một sức mạnh phi thường để đánh tan 29 vạn quân xâm lược Thanh trong mùa xuân Kỷ Dậu 1789, làm nên một trận đại thắng Ngọc Hồi- Đống Đa lẫy lừng trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
Ngày 19-9-1954, khi nói chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đại đoàn quân Tiên Phong (Sư đoàn 308 hiện nay) tại Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Lời căn dặn của Bác thấm đẫm “hồn thiêng sông núi” và hàm chứa ý nghĩa thiêng liêng sâu sắc. Bởi nhắc đến Vua Hùng đâu chỉ là nhắc đến những vị quốc công đã sinh ra quốc gia dân tộc đầu tiên của người Việt, mà còn khơi gợi trong trái tim, khối óc mỗi người Việt Nam về tình yêu xứ sở cội nguồn, về lịch sử truyền thống, về thuần phong mỹ tục của tổ tiên ta đã dày công tạo dựng, bồi đắp nên.
Do đó, lời Bác dạy cũng là điều nhắc nhớ mọi người dân đất Việt là phải luôn có ý thức bảo toàn non sông gấm vóc, giữ gìn nòi giống và bảo vệ những giá trị văn hóa mà tổ tiên đã để lại. Nhìn rộng ra, đó là ý thức bảo vệ độc lập chủ quyền cả về lãnh thổ và văn hóa dân tộc.
Kế thừa, tiếp thu truyền thống, bài học kinh nghiệm từ lịch sử dựng nước và giữ nước của ông cha, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về vị trí, vai trò của yếu tố văn hóa nói chung, của việc bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc nói riêng, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đó là: Từ việc xác định “văn hóa là một trong ba mặt trận mà người cộng sản phải quan tâm” (Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943), một trong ba cuộc cách mạng phải tiến hành đồng thời(Đại hội IV), rồi nâng tầm “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu thúc đẩy sự phát triển kinh tế- xã hội” (Hội nghị Trung ương 5, Khóa VIII), đến khẳng định “Văn hóa là một trong ba yếu tố then chốt quyết định sự phát triển toàn diện, bền vững của đất nước”(Hội nghị Trung ương 10, Khóa IX) và chỉ rõ Văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển” (Đại hội XI). Tại Nghị quyết 33, Hội nghị Trung ương 9, khóa XI, Đảng ta khẳng định rõ hơn: “Văn hóa là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trước Đại hội XI của Đảng chưa đặt ra nhiệm vụ “bảo vệ nền văn hóa dân tộc” trong mục tiêu của quốc phòng, an ninh. Nhưng Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XII của Đảng mới đây đã nêu rõ: “Mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Việc Đảng ta xác định “bảo vệ nền văn hóa dân tộc” thực chất là xác lập bảo vệ chủ quyền văn hóa của quốc gia. Là một trong những yếu tố vừa bền vững, vừa năng động, văn hóa sẽ góp phần khai thác, nhân lên “sức mạnh mềm” của quốc gia để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Vì nói đến văn hóa là nói đến con người, vì vậy, trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, nhấn mạnh đến yếu tố văn hóa thực chất là chú trọng quan tâm chăm lo xây dựng con người có đủ bản lĩnh, niềm tin và sức mạnh tinh thần, năng lực, sức khỏe nhằm đáp ứng, thực hiện thắng lợi một trong hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam.
Trước đó, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” cũng đã xác định 6 giải pháp lớn, trong đó có giải pháp về xây dựng, bảo vệ và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phải đi đôi với phòng chống, đẩy lùi văn hóa độc hại và nguy cơ “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài.
Có một câu danh ngôn, đại ý: Văn hóa là những cái còn gì còn lại khi tất cả cái khác mất đi. Lịch sử thế giới từng chỉ ra: Mất  lãnh thổ, chủ quyền có thể đấu tranh lấy lại, giành lại được; nhưng mất văn hóa là mất tất cả, mất vĩnh viễn.
Chính vì vậy, “bảo vệ nền văn hóa dân tộc” thực chất là bảo vệ những giá trị gốc gác, cốt lõi nhất để bảo đảm cho dân tộc ấy trường tồn, phát triển bền vững. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới hiện nay, thì việc bảo vệ độc lập chủ quyền về văn hóa của dân tộc càng có ý nghĩa quan trọng.
Chủ quyền về văn hóa dân tộc không nên hiểu đơn giản là bảo vệ những cái gì hiện có của văn hóa truyền thống, mà chỉ giữ lại những giá trị tinh túy làm nên hồn cốt, diện mạo của bản sắc văn hóa dân tộc, mạnh dạn “cắt bỏ” những “khối u” có thể làm mọt ruộng nền văn hóa từ bên trong; đồng thời phải chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đẩy lùi nguy cơ văn hóa xấu độc, văn hóa lai căng đang tràn vào nước ta thông qua nhiều âm mưu, thủ đoạn rất tinh vi, nham hiểm. Mặt khác, phải biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc khác trên thế giới.
Bởi vì, biết bồi đắp, làm giàu những tinh hoa văn hóa của nhân loại tiến bộ, vừa thể hiện tư thế, bản lĩnh của một dân tộc có văn hóa, vừa là một trong những giải pháp hữu hiệu để góp phần tạo nên “sức đề kháng văn hóa” cho quốc gia dân tộc.
Một khi quốc gia dân tộc có đủ trí tuệ, bản lĩnh và sức mạnh niềm tin, đó là cơ sở vững vàng nhất để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và cũng là thành trì chắc chắn nhất để bảo vệ nền văn hóa dân tộc.
Nguyễn Văn Hải


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...