Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản
của cách mạng Việt Nam”[1], trong đó nổi bật, triệt để
nhất là những quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam nói chung, về CNXH nói riêng được hình thành và phát
triển, hoàn thiện dựa trên nhiều cơ sở như là sự kết tinh tinh hoa trí tuệ của
nhân loại, mà cơ sở xuất phát điểm đầu tiên, tiên quyết là “kế thừa và phát triển
các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[2]. Nghiên cứu, làm sâu sắc
vai trò của các giá trị tốt đẹp của dân tộc, tức là các giá trị văn hoá dân tộc,
trong việc hình thành những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH, có nhiều ý nghĩa
lý luận và thực tiễn đối với cả quá trình tiến triển của cách mạng Việt Nam, nhất
là trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay. Bởi vì công cuộc đổi mới, do Đảng
ta khởi xướng, chính là một đường hướng mới, sáng tạo nhằm hiện thực hoá những
quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ
thể của nước ta và trên thế giới trong điều kiện mới, tuy biết rằng đây là một
con đường đầy chông gai thử thách với những diễn tiến phức tạp, khó lường,
nhưng có lẽ “không còn con đường nào khác” để đảm bảo cho sự thành công của
CNXH ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên CNXH “không kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Có
thể tóm tắt các giá trị văn hoá dân tộc Việt Nam là chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Không phải ngẫu nhiên mà đa số các nhà chính trị, văn hoá – xã hội lỗi lạc
của nước ta đều thống nhất quan điểm cho rằng: chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt tầm sâu và chiều dài của lịch sử Việt Nam – dẫn đường và quy định bản
chất văn hoá Việt Nam trong mối quan hệ với các nước khác, dân tộc khác trên thế
giới. Hồ Chí Minh chính là sản phẩm của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam ở mức độ và
trình độ cao nhất. Hồ Chí Minh được giáo dưỡng bởi truyền thống yêu nước của
gia đình, dòng họ, của quê hương, đất nước và cũng chính Người nhận thức sâu sắc
về chủ nghĩa yêu nước Việt Nam và nâng nó lên một tầm cao mới để Người quyết định
tự mình ra đi tìm đường cứu nước, đến với Lênin và chủ nghĩa xã hội với quyết
tâm xây dựng thành công CNXH trên đất nước ta.
Chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam hàm dưỡng nhiều truyền thống quý báu của văn hoá dân tộc
mà chủ yếu, nổi trội nhất là tình yêu thương quê hương, đất nước, con người
trên tinh thần trọng nhân, nghĩa Việt Nam; tinh thần cố kết cộng đồng Nhà –
Làng – Nước; tình cần cù chịu thương, chịu khó, tiết kiệm và sáng tạo; sự ham
hiểu biết, học tập; yêu chuộng hoà bình, tự do, độc lập và bất khuất, kiên cường;
hoà hiếu với dân tộc khác trong khu vực và trên thế giới v.v… trong suốt quá
trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm lịch sử. Những truyền thống văn hoá
quý báu ấy được Hồ Chí Minh trân trọng, nâng niu, kế thừa và phát triển.
Truyền
thống yêu thương quê hương, đất nước, con người trên tinh thần trọng nhân,
nghĩa của dân tộc được tích luỹ trong suốt quá trình dựng nước, mở nước và giữ nước
qua hàng nghìn năm lịch sử văn minh. Đây là giá trị văn hoá đặc sắc nhất, nổi
trội nhất của dân tộc, trên bình diện rộng nhất của văn hoá. Tinh thần yêu nước
của mỗi con người Việt Nam trong lịch sử, cho dù học là ai, từ đầu đến, làm gì,
gái hay trai, già hay trẻ, giàu hay nghèo, sang hèn hay quý tiện, dân tộc hay
theo tín ngưỡng tôn giáo nào, chỉ trừ những kẻ bán nước cầu vinh,… cũng đều thiết
tha, đằm thắm ví như cơm ăn, nước uống, khí thở hàng ngày và bao giờ cũng rất cụ
thể, chứ ít khi trừu tượng, chung chung. Họ yêu thương những mảnh vườn, nếp
nhà, mái đình, luỹ tre, vườn cau, vườn trầu, ruộng đồng, dòng sông, cánh diều rất
cụ thể. Họ yêu thương, quý trọng những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể của
quê hương đất nước, với những nghề nghiệp cụ thể, với những lễ hội quanh năm
phong phú nơi quê nhà và đặc biệt là trước
những chiến công hiển hách của cha ông trong công cuộc chống thiên tai, địch hoạ
v.v… Tất cả những giá trị văn hoá ấy tự nó không thể tự phô diễn cho chính nó.
Sở dĩ con người Việt Nam yêu thương quê hương, đất nước đến mức tín ngưỡng
thiêng liêng như vậy là vì trong nó đã chứa đựng tình yêu thương vô bờ bến của
cha mẹ, ông bà đối với đàn con cháu, chính họ là những người đã sinh ra và nuôi
dưỡng đàn con cháu thành người, cũng chính họ bằng mồ hôi nước mắt đã đổ ra để
xây dựng cơ nghiệp cho đàn con cháu thụ hưởng kế thừa – “Công nha như núi thái
sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…” Quê hương, đất nước còn thấm đượm
tình nghĩa thầy trò – Thày hết lòng với học trò: luôn luôn mong muốn học trò
làm và hết sức mình để lũ học trò có khối lượng trí thức phong phú đủ để giúp
nước, giúp đời và giáo dưỡng học trò thành người phát triển toàn diện. Người Việt
Nam quý trọng người thày giáo như người cha tinh thần của mình – “Không thầy đố
mày làm nên” – “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư”… Quê hương đất nước còn đằm thắm,
ngọt ngào và rất quý trọng tình yêu đôi lứa. Tình yêu lứa đôi luôn là cội nguồn
của sự sinh thành, phát triển và hạnh phúc lớn lao đối với mỗi người, là kỷ niệm,
ký ức “không bao giờ phai mờ” trong tâm khảm. Người Việt Nam yêu quê hương đất
nước còn vì mỗi mảnh vườn, tấc đất… đều đã thấm đẫm máu xương của bao thế hệ
trước đã đổ ra trong chiến đấu chống kẻ thù xâm lược.
Người
Việt Nam yêu thương quê hương đất nước đến mức như vậy là vì quê hương đất nước
đã chứa đựng, tích luỹ và nuôi dưỡng tình người. Chất người đã nhân hình hoá
quê hương, đất nước thành người và do đó nó sống mãi, trường tồn trong mỗi người
qua các thế hệ người.
Yêu
thương quê hương đất nước con người (ái quốc, ái nhân) là điểm bắt đầu, tiên
quyết dẫn tới hành động quyết tâm dựng nước, mở nước, cứu nước, giúp đỡ và cứu
vớt những con người bị đoạ đầy đau khổ (cứu quốc, cứu nhân). Đó chính là truyền
thống nhân nghĩa Việt Nam – “Thương người như thể thương thân”, “một con ngựa
đau cả tàu bỏ cỏ”, “giúp người như giúp mình”, “giữa đường thấy sự bất bình chẳng
tha”… Với truyền thống nhân nghĩa ấy, người Việt qua các thế hệ không bao giờ
muốn dừng lại với “phận nghèo khổ” mà luôn luôn nuôi dưỡng ý chí tự lực tự cường,
quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng to đẹp hơn. Giữ nước luôn gắn liền với
quá trình dựng nước. Dựng nước là điểm bắt đầu, là yếu tố quyết định trong chấn
hưng và phát triển đất nước, là sự nghiệp muôn đời con cháu. Nhưng khi đất nước
bị kẻ thù xâm lược thì mỗi người Việt phải sát cánh cùng nhau đánh giặc cứu nước
theo truyền thống “một dân tộc độc lập và một quốc gia có chủ quyền”…
Tóm
lại, bản chất sâu sắc của tình yêu thương quê hương, đất nước, con người trên
tinh thần nhân nghĩa Việt Nam là khát vọng và quyết tâm dựng xây đất nước, quê
hương ngày càng to đẹp hơn, hùng mạnh hơn để người Việt Nam sống ngày càng đầy
đủ hơn, hạnh phúc hơn, được bình đẳng và tự do như con người ở các nước khác
trên thế giới. Và do đó Người Việt Nam cũng không cam chịu nước mất, nhà tan
trước sự xâm lược, thống trị của kẻ thù, cả dân tộc đã đứng lên đánh giặc cứu
nước trong suốt chiều dài lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Phản ánh khát vọng
ấy của dân tộc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ nhận thức và tình cảm của Người:
“Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bực là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc
lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành”[3].
Tiến xa hơn nữa là quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để
không còn cảnh người áp bức bóc lột người, phấn đấu theo mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ để đi tới xã hội cộng sản tương lại. Do đó đấu
tranh giành độc lập, tự do cho đất nước, tuy là mục tiêu tiên quyết, nhưng
không phải là mục tiêu cuối cùng. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta tranh được tự
do độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do độc lập cũng không làm
gì, dân chỉ biết rõ giá trị của tự do độc lập khi mà dân được ăn no mặc đủ”[4].
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét