Đoàn kết toàn dân – đoàn kết các dân tộc trong
cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam – đại đoàn kết là tư tưởng lớn của Hồ Chí
Minh, trong đó có các quan điểm về đoàn kết với tôn giáo. Đó là những quan điểm
của Hồ Chí Minh về cơ sở, nội dung và vai trò của đoàn kết với tôn giáo đối với
cách mạng nước ta.
1.
Cơ sở của những quan điểm Hồ Chí Minh về đoàn kết với tôn giáo là quá trình nhận
thức rất rõ ràng, đúng đắn và sâu sắc những đặc trưng và sự tồn tại của tín ngưỡng
tôn giáo ở nước ta.
Hồ
Chí Minh viết: “Người dân An Nam không có linh mục, không có tôn giáo theo cách
nghĩ của Châu Âu. Việc cúng bái tổ tiên hoàn toàn là một hiện tượng xã hội.
Chúng tôi không có những người tư tế nào. Những người già trong gia đình hay
các già làng là người thực hiện những nghi lễ tưởng niệm. Chúng tôi không biết
uy tín của người thày cúng, của linh mục là gì”[1]. “Tổ tiên” được Người nói
đến ở dây vừa chỉ ông tổ trong phạm vi gia đình, huyết thống vừa được mở rộng
ra cả dân tộc Việt Nam .
Đó là họ “Hồng Bàng” là dòng giống “Lạc Hồng”, là “Vua Hùng”. Lời căn dặn, nhắc
nhở của Người “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ
lấy nước” là còn có nghĩa như vậy. Đây là đạo lý bắt nguồn từ tư tưởng “Uống nước
nhớ nguồn” truyền thống của dân tộc Việt Nam .
Theo
quan niệm đó của Hồ Chí Minh chúng ta thấy tín ngưỡng tôn giáo ở nước ta có những
đặc trưng cơ bản là:
a.
Từ xa xưa dân tộc Việt Nam
“không có tôn giáo theo cách nghĩ của Châu Âu”, nhưng có tín ngưỡng, thờ cúng tổ
tiên.
b.
Nếu coi cứ có tín ngưỡng và thờ cúng (nghi lễ cúng tế) là có tôn giáo thì có thể
nói Việt Nam
có tôn giáo. Đó là tôn giáo tổ tiên – đạo tổ tiên – tôn giáo dân tộc.
Đạo
tổ tiên của Việt Nam
có một số đặc thù:
-
Thần tượng tín ngưỡng và thờ cúng cao nhất là cha rồng, mẹ tiên đến các vua
Hùng (khởi nguồn của dân tộc Việt Nam ). Thấp hơn là những người có
công với dân với nước ở mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá v.v… được tôn
vinh là thánh, thần… Thấp nhất là ông, bà, cha, mẹ… đã mất. Đó là những người
có thực. Riêng cha rồng (Lạc Long Quân), mẹ tiên (Âu Cơ) tuy là truyền thuyết
nhưng phản ánh nguồn gốc có thực của các dân tộc Việt. Những người đang sống, đến
lượt họ cũng là đối tượng tín ngưỡng, sau khi đã chết. Đó là truyền thống quý
báu bắt nguồn từ đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt Nam .
Như
vậy cả đối tượng tín ngưỡng và người tín ngưỡng đều là một – tất cả mọi người
Việt Nam
– theo thứ tự sống – chết kế tiếp nhau. Những người đã chết trở thành đối tượng
tín ngưỡng. Những người đang sống là chủ thể tín ngưỡng. Có thể nói toàn dân vừa
là chủ thể tín ngưỡng, vừa là đối tượng tín ngưỡng theo thứ tự sống – chết. Vì
vậy giữa đạo với đời gắn chặt với nhau, không tách rời nhau như quan niệm tôn
giáo theo nghĩa Châu Âu và nhiều nước khác trên thế giới.
-
Ở Châu Âu và nhiều nước khác, đối tượng tín ngưỡng và thờ cúng là giáo chủ (vị
thần tối cao), thấp hơn là các vị thần khác. Họ đều được coi là có thần quyền. Ở
đạo tổ tiên Việt Nam ,
các đối tượng tín ngưỡng, thờ cúng không được coi là có thần quyền mà chỉ có
ơn, huệ với chủ thể tín ngưỡng. Các ngày giỗ tổ tiên, các ngày hội (thực ra
cũng là ngày giỗ), rước sách các thần ở làng xã, ở một vùng và trong cả nước,
chủ yếu là ôn lại công đức của các vị thần, thánh đó đối với dân với nước. Có
hiện tượng cầu xin điều này, điều khác là sự du nhập từ nước ngoài (chủ yếu là
của đạo Bà La Môn Ấn Độ và đạo Lão Trang Trung Quốc), nhưng chỉ là thứ yếu.
-
Nếu coi đạo tổ tiên là một hình thức tôn giáo thì tôn giáo này không có giáo chủ,
không có kinh sách (kinh, luật và luận), không có giáo hội (không có tổ chức).
Nó chỉ có tín ngưỡng và các nghi lễ cúng thể, rước sách vào những ngày nhất định,
được hình thành tuỳ theo tính cách của các vị thần lúc còn sống và điều kiện của
mỗi ngày hội tưởng niệm các vị thần đó. Những người chủ tế cũng không cố định,
như Hồ Chí Minh nói là “không có người tư tế nào… không biết uy tín của người
thày cúng, của linh mục là gì”, nghĩa là không có linh mục chuyên nghiệp.
-
Chủ thể tín ngưỡng có thể cùng một lúc tín ngưỡng nhiều vị thần khác nhau như:
tổ tiên dòng họ, các vị thành hoàng, các vị hạ, trung, thượng đẳng thần và vị tổ
chúng của cả nước. Hiện tượng xã hội phổ biến và lâu dài này phản ánh sự bình đẳng,
tự do trong đời sống tinh thần – tín ngưỡng – tôn giáo của con người và dân tộc
Việt Nam ,
được xã hội trân trọng bảo tồn và dần dần trở thành truyền thống đặc thù, rất
quý báu của dân tộc ta.
Đạo
tổ tiên (xuất phát từ đạo lý uống nước nhớ nguồn) đã được các triều đại phong
kiến Việt Nam
hệ thống hoá làm cơ sở để liên kết chặt chẽ Nhà – Làng – Nước, trở thành chỗ dựa
tinh thần vững chắc của triều đình, của xã hội. Đó chính là yếu tố nội sinh
trong việc du nhập các tôn giáo nước ngoài, vừa bảo đảm tôn trọng sự bình đẳng,
tự do, vừa đảm bảo tính thống nhất, hoà hợp giữa tôn giáo bản địa với các tôn
giáo ngoại nhập khác. Hiện tượng Tam giáo đồng quy (đồng nguyên) chỉ có thể được
giải thích thoả đáng trên tinh thần này. Vì vậy mà trong lịch sử trước khi
Thiên chúa giáo du nhập vào nước ta, ở nước ta không có chiến tranh mang màu sắc
tôn giáo.
Những
quan điểm của Hồ Chí Minh ở trên là những phát hiện quý báu, là cơ sở nền tảng
về lý luận trong việc hoạch định đường lối, chính sách tín ngưỡng – tôn giáo của
Người và Đảng ta.
Tôn
giáo còn đồng hành với dân tộc trong suốt quá trình cách mạng nước ta. Quan điểm
này của Hồ Chí Minh được thể hiện rõ ở bài “Ai phá đạo” của Người được đăng
trên báo Nhân dân ngày 6/7/1955. Khi phê phán ý kiến cho rằng Đảng và Nhà nước
ta tôn trọng tự do tín ngưỡng của đồng bào có đạo chỉ là sách lược, nhất thời,
còn về lâu dài tôn giáo không thể đồng hành với những người cộng sản, bác bỏ ý
kiến cực đoan này, Hồ Chí Minh tuyên bố: “Tôi là cán bộ cách mạng, là người cộng
sản. Nhưng mục đích của chúng tôi là lo cho dân có cơm ăn, áo mặc, được học
hành, sống sung sướng trong độc lập, tự do.
Các
cụ lo việc tín ngưỡng thờ Chúa, lo việc linh hồn tín đồ. Nhưng tín đồ cũng cần
ăn, mặc, ở, học hành, cần được tự do, hạnh phúc và các giáo sĩ chắc chắn cũng
quan tâm rất nhiều.
Người
cách mạng và người tôn giáo thống nhất với nhau ở mục đích mưu cầu hạnh phúc ở
đời này cho nhân dân. Chúng ta phải lo nhiệm vụ ấy. Còn đối với tín ngưỡng tôn
giáo thì đã có chính sách rõ ràng. Chúng tôi tôn trọng và đảm bảo tự do tín ngưỡng
của tất cả các tôn giáo. Như thế kẻ nào đặt ra việc công giáo không đội trời
chung với cộng sản là sai…”.
Ở
tuyên bố này, Hồ Chí Minh đã nói rõ tôn giáo và dân tộc cùng đồng hành trong
quá trình cách mạng nước ta vì những lý do chính đáng dưới đây.
a.
Trước đây và trong quá trình cách mạng nước ta, tôn giáo vẫn đồng hành với dân
tộc, với chủ nghĩa xã hội vì còn có lý do tồn tại.
-
Trước hết tín ngưỡng tôn giáo vẫn còn là đời sống tinh thần, là quyền con người
của một bộ phận lớn nhân dân. Như Hồ Chí Minh đã nói rõ là mọi người dân Việt Nam có quyền tự
do theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Hơn nữa đối với tín ngưỡng tổ tiên
còn là một hiện tượng xã hội phổ biến từ xa xưa…
-
Ngày 14/7/1969 khi tiếp và trả lời phỏng vấn phóng viên báo Gramma (Cu Ba). Người
nói “Mỗi người, mỗi gia đình đều có nỗi đau khổ riêng…”[2]. Trong điều kiện đó chức
năng đền bù hư ảo của tôn giáo vẫn có sức cuốn hút một bộ phận lớn nhân dân đi
theo tôn giáo.
b.
Thế giới khách quan, niềm tin của những người theo tôn giáo và của những người
cách mạng cộng sản, như Hồ Chí Minh tuyên bố, tuy khác nhau, nhưng về mục đích
có nhiều điểm tương đồng. Những điểm tương đồng đó là:
-
Yêu nước với đức tin tôn giáo (kính chúa) không mâu thuẫn với nhau mà thống nhất
với nhau. Một người Việt Nam
vừa yêu nước nồng nàn vừa là một tín đồ chân chính. “Yêu nước kính chúa”, “kính
chúa yêu nước”… là điểm tương đồng của đa số bà con giáo dân Việt Nam . Kính chúa
gắn liền với yêu nước, phụng sự tổ quốc gắn liền với phụng sự đức chúa, đẹp đời
tốt đạo… luôn luôn là mong ước của đồng bào theo đạo ở nước ta. Yêu nước và đức
tin tôn giáo thống nhất với nhau là cơ sở cho một điểm tương đồng lớn hơn là
cùng chung mục đích giải phóng dân tộc, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân cả
phần xác và phần hồn – “phần xác ấm no, phần hồn mới thong dong”. Hồ Chí Minh
chỉ rõ nước có vinh thì đạo mới sáng, nước không độc lập thì tôn giáo không được
tự do, nên chúng ta phải làm cho nước độc lập đã” [Báo Cứu quốc, ngày
14/1/1946]. Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng những kẻ tà ác, bán nước, cầu vinh
chính là những kẻ phản chúa, lợi dụng Chúa để làm ô danh Chúa. Chúng không chỉ
là “Việt gian mà còn là giáo gian”, là những kẻ “phản chúa, phản dân, phản nước”
như GiuĐa, như Ngô Đình Diệm v.v…
c.
Tôn giáo với dân tộc, với quá trình cách mạng nước ta còn có nhiều điểm tương đồng
trên nhiều mặt trận khác như văn hoá, đạo đức, chính trị…
-
Tương đồng về văn hoá, cả vật thể và phi vật thể, được thể hiện trong định
nghĩa về văn hoá của Hồ Chí Minh[3].
-
Tương đồng về đạo đức, Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Chúa
Giê su dạy: đạo đức là bác ái.
Phật
Thích Ca dạy: đạo đức là từ bi.
Khổng
Tử dạy: đạo đức là nhân nghĩa.”[4]
-
Trong chính trị cũng có một số điểm tương đồng, chủ yếu là về mục đích giữa tôn
giáo với chủ nghĩa xã hội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét