Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

Đồng chí Phạm Hùng với công tác cán bộ

Một Đảng cầm quyền khi đưa ra chủ trương, đường lối đúng đắn cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực và phẩm chất để thực hiện đường lối, chủ trương đó. Vì vậy, công tác cán bộ giữ một vị trí trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa qua nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nghị quyết Trung ương 4 tập trung vào 3 vấn đề cấp bách: Thứ nhất, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Thứ ba, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị. Ba nội dung đó có quan hệ gắn bó với nhau, liên quan chặt chẽ đến công tác cán bộ của Đảng.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh đồng chí Phạm Hùng (1912-2012), chúng ta lại có dịp học tập những quan điểm của đồng chí về công tác cán bộ, điều đó có ý nghĩa thiết thực trong bối cảnh nước ta hiện nay. Trong quá trình hội nhập trước những yêu cầu mới của đất nước, công tác cán bộ càng trở nên hết sức quan trọng và cấp bách. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực và phẩm chất để đảm đương những nhiệm vụ trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, sẵn sàng đón bắt cơ hội và đối mặt với những thách thức trong hội nhập là vấn đề mà Đảng ta đặc biệt quan tâm.
Đồng chí Phạm Hùng với việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
Đồng chí Phạm Hùng luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ: cán bộ là gốc của mọi công việc, đào tạo bồi dưỡng cán bộ là công việc gốc của Đảng. Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, đồng chí đã cụ thể hóa quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ trong điều kiện và cương vị công tác của mình.
Trong gần 60 năm hoạt động cách mạng, đồng chí Phạm Hùng đã giữ nhiều vị trí lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, chịu trách nhiệm trực tiếp và to lớn trước nhân dân. Trong đó, đồng chí Phạm Hùng có thời gian trực tiếp lãnh đạo ngành công an nhiều nhất. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong cách mạng, ngay từ năm 1950, đồng chí Phạm Hùng đã đề xuất đề án xây dựng Công an nhân dân. Có thể thấy đây là lần đầu tiên trong ngành công an bàn đến một đề tài thật mới, mang tầm chiến lược để xây dựng đội ngũ cán bộ của một ngành chủ chốt trong bộ máy của nhà nước cách mạng. Đề án Công an nhân dân – 1950 do đồng chí Phạm Hùng đề xướng, xét cho cùng thì vẫn là cơ sở lý luận cho việc xây dựng ngành công an ngày nay.
Đồng chí Phạm Hùng rất quan tâm giáo dục tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho các cán bộ, chiến sĩ công an. Năm 1951, trên cương vị Phó Giám đốc Sở Công an Nam Bộ, đồng chí Phạm Hùng đã chỉ thị in thành sách sáu điều dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh[1] để cán bộ chiến sĩ miền Nam thực hiện. Sau đó, năm 1980, khi được Bộ Chính trị phân công làm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ, đồng chí Phạm Hùng đã lấy sáu điều dạy Công an Nhân dân của Bác Hồ ra nghiên cứu học tập trong toàn lực lượng từ Trung ương đến địa phương, nhằm xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh
Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước bị chia cắt làm hai miền Nam Bắc. Căn cứ vào tình hình thực tế lúc bấy giờ, Bộ Chính trị, đồng chí Phạm Hùng và lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam đã sáng suốt nhận rõ địch sẽ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước sẽ lâu dài chứ không phải 2 năm như Hiệp định đã quy định. Đồng chí Phạm Hùng đã tính toán, dự kiến một kế hoạch cán bộ cho cách mạng miền Nam để đối phó với tình hình xấu có thể xảy ra. Với tầm nhìn của một nhà chiến lược, đồng chí Phạm Hùng cùng với Trung ương Cục đã trực tiếp chỉ đạo chọn lựa, tập huấn, bố trí nhiều cán bộ ở lại miền Nam, chuẩn bị cho cuộc đấu tranh lâu dài, ác liệt sau này.
Sau năm 1960, khi có Nghị quyết Trung ương 15, miền Bắc tăng cường phát huy vai trò hậu phương lớn và chi viện cho miền Nam về mọi mặt. Trước tiên là các khung cán bộ quân sự. Đợt đi đầu là cán bộ chỉ huy cấp Trung đoàn ở miền Nam tập kết, nay trở về. Đồng chí Phạm Hùng biết rõ từng người và có ý kiến quyết định trong việc điều động. Đồng chí mời các cán bộ đến nhà riêng ăn cơm nói chuyện rất thân tình. Đồng chí Huỳnh Minh Hiển, thư ký riêng của đồng chí Phạm Hùng chịu trách nhiệm đến Ban Thống nhất nhận sâm Triều Tiên để đồng chí Phạm Hùng tặng các cán bộ vào Nam mỗi người một củ dùng tăng lực khi leo núi. Đồng chí Phạm Hùng rất quan tâm đến anh em đứng tuổi, luôn nghĩ cách để cho anh chị em đi vào Nam cho đỡ tốn sức, anh cân nhắc kỹ và quyết định xem ai có thể và cần đi đường biển, ai có thể tranh thủ đi công khai bằng máy bay theo các Đoàn đi dự Hội nghị nhân dân Đông Dương hay Phật giáo Quốc tế tổ chức ở miền Nam…    
Đồng chí Phạm Hùng rất chăm lo cho công tác giáo dục lý luận chính trị của hệ thống các trường Đảng. Đồng chí nhắc nhở các đồng chí trong Ban Tuyên huấn Trung ương Cục miền Nam phải cố gắng làm tốt công tác giáo dục, đào tạo và chăm lo mọi mặt cho học viên ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc miền Nam được Trung ương Cục mở lại vào năm 1969. Đồng chí căn dặn: “Đảng ta là Đảng Cộng sản, các đồng chí đảng viên, bất cứ ở cương vị nào, về trường Đảng là về với mái nhà của Mẹ. Phải chăm sóc, lo lắng cho các đồng chí chu đáo, thể hiện cho được tình cảm của Đảng là mẹ hiền với các con. Các đồng chí về học, dù là Bí thư Khu ủy, Bí thư Tỉnh ủy hay có chức vụ nào cao hơn nữa khi về học, đều là học viên trường Đảng, đều là đảng viên thuộc chi bộ nhà trường, chứ không phải là cấp lãnh đạo ở đây. Phải tuân thủ các nội quy của trường. Phải sống như một đảng viên trong xã hội cộng sản này vì tất cả học viên đều là đảng viên cộng sản. Riêng các anh chị em công tác ở trường Đảng, từ Ban Giám hiệu đến mỗi nhân viên, đều phải nhận thức rõ trường Đảng là nơi dạy chủ nghĩa cộng sản, nơi để các học viên học tập và rèn luyện phong cách, đạo đức, nếp sống cộng sản. Các đồng chí phải xây dựng trường sao cho xứng đáng là vườm ươm chủ nghĩa cộng sản để các học viên hình dung xã hội mình xây dựng tương lai đẹp đẽ tình người như thế nào! Trung ương Cục rất mong không nghe tiêu cực, bất hòa, công tác thiếu trách nhiệm ở trường Đảng. Trung ương Cục cũng rất mong nhận được những nhận xét tốt của học viên với tập thể trường Đảng chúng ta, những người thay mặt cho Đảng bộ ở miền Nam chăm sóc, lo lắng cho các đồng chí ấy.”[2]
Sau khi miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất, nhân dân cả nước ra sức khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, chuẩn bị các điều kiện để kiến thiết đất nước. Trước tình hình đó, công tác cán bộ đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ rất cấp bách cả về số lượng và chất lượng. Nhận rõ yêu cầu này, ngày 5-6-1975, đồng chí Phạm Hùng cùng Trung ương Cục đã chỉ thị cho các cấp ủy Đảng và Ban Tuyên huấn Trung ương Cục phải tiến hành khẩn trương việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục lực lượng cốt cán trong phong trào quần chúng với quy mô lớn để trong vài tháng có được đội ngũ cán bộ thực hiện được một số công việc cấp bách của tình hình sau giải phóng. Nội dung huấn luyện phải tập trung trang bị một số kiến thức cơ bản về mục đích và lý tưởng cách mạng; về tình hình nhiệm vụ trước mắt và cụ thể ở địa phương; về phương pháp công tác lãnh đạo, vận động quần chúng; về tư cách đạo đức cách mạng. Chủ trương này được thực hiện khẩn trương và hiệu quả đã giải quyết được khó khăn “gốc” cho các địa phương, cơ sở sau giải phóng.



[1] Tháng 3 năm 1948, trong thư gửi đồng chí Giám đốc Công an khu XII, Bác Hồ đã dạy:
Tư cách người công an cách mệnh là:  -   Đối với tự mình, phải cần, kiệm, liêm, chính.
-          Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
-          Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
-          Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
-          Đối với công việc phải tận tụy.
-          Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo.

[2] Chân dung người cộng sản chân chính Phạm Hùng, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2001, tr. 171.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...