Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

Giá trị đạo đức với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

            Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bác) là kết tinh những triết lý nhân sinh vừa cô đọng, sâu sắc, ở tầm cao lý luận, vừa cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Rõ nhất là những điều mong muốn cuối cùng của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1]. Đó là những mục tiêu vừa là trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu ấy, Bác thiết tha mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, trước hết là mỗi đảng viên và cán bộ, phải nêu gương suốt đời tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

           Điểm mấu chốt nhất ấy là kết quả tất yếu trong suốt cuộc đời hoạt động của Bác được tích luỹ lại, trên cơ sở thấy rõ sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân đã tin theo Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng. Bởi vì: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh, là thống nhất độc lập, là hòa bình ấm no”[2]; ngoài lợi ích cña nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác. Đó là đạo đức cách mạng – đạo đức cao cả nhất, trong sáng nhất, là gốc của người chiến sĩ cách mạng, là gốc của cán bộ, đảng viên và của cả nhân dân lao động. Nhờ có đạo đức cách mạng mà người chiến sĩ cách mạng luôn vượt qua mọi khó khăn gian khổ, có thể còn bị tù đầy, tra tấn, hy sinh, oan trái…, nhưng vẫn quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ do cách mạng yêu cầu.Vì vậy, sự nghiệp cách mạng luôn yêu cầu người chiến sĩ cách mạng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức, nêu cao tấm gương đạo đức như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong… Những điều giáo huấn này đã được Bác nhấn mạnh nhiều lần trong các bài viết, bài nói của Người: Bác nói đến tư cách một người cách mệnh ở trang mở đầu của tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (xuất bản năm 1927). Bác nói rõ đạo đức là hạt nhân của người chiến sĩ cách mạng, vào ngày 27-1-1956, ở lớp nghiên cứu chính trị khoá I tại trường đại học nhân dân Việt Nam (nay là Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội):
         “Theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy có thể tóm tắt trong 11 chữ: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”.
          Nói tóm tắt, “minh minh đức” là chính tâm, “thân dân” là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
          Nói một cách khác , tức là “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”[3].
          Trong cả bản Di chúc lần đầu (viết năm 1965) và bản Di chúc lần cuối (viết năm 1969), Bác vẫn nhắc lại cho toàn Đảng và toàn dân ta cái hạt nhân ấy – cái then chốt và cũng là cái bản chất nhất ấy, nhưng lần này Bác nói rất rõ, thật cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm y như Bác đang trực tiếp cầm tay chỉ việc cho đàn con cháu vậy: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”[4]. Phân tích đoạn Di chúc  này sẽ thấy rõ điều đó:
          “Đảng ta là một đảng cầm quyền” nghĩa là Đảng ta là đảng duy nhất trực tiếp lãnh đạo toàn xã hội, trước hết và quan trọng nhất là lãnh đạo chính quyền, để tổ chức toàn dân giữ gìn giang sơn, đất nước, giữ vững độc lập tự chủ, giữ vững chế độ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta…Để hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang nhưng cũng đầy khó khăn, thách thức ấy, đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng lớn mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đoàn kết, đạo đức cách mạng, trí tuệ, tài năng…bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch và vững mạnh. Nhưng với nội dung và vị thế của "một đảng cầm quyền", như Bác đã nhiều lần cảnh báo, cũng chứa đựng trong nó nhiều nguy cơ nghiêm trọng, mà trực tiếp, lâu dài, lớn dần và khó khắc phục nhất là sự xuống cấp, thoái hoá biến chất dần dần về phẩm chất đạo đức cách mạng sang mặt đối lập của nó là chủ nghĩa cá nhân, dẫn tới sự suy thoái về lập trường chính trị, ý thức tư tưởng và tổ chức, sa đọa về lối sống… của một bộ phận đảng viên, cán bộ có chức có quyền trong hệ thống chính trị, trước sự cám dỗ rất khó vượt qua của mặt trái quyền lực và lợi ích vật chất đang từng ngày đòi hỏi được nâng cao vượt quá xa khả năng đáp ứng của một nền kinh tế vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu và âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch… Nếu nguy cơ của thứ giặc nội xâm này không được khắc phục, loại trừ thì tất yếu sẽ dẫn tới nguy cơ lớn hơn, nghiêm trọng nhất là làm mất dần niềm tin yêu của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, với chế độ. Bác đã nói rõ nguy cơ này khi Người chỉ ra rằng:
          “- Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
-  Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[5]
Nghĩa là đứng trước nguy cơ “lật thuyền cũng là dân”[6] mà nhiều vĩ nhân đời trước đã cảnh tỉnh. Với những ý nghĩa ấy, “Đảng ta là một đảng cầm quyền” cũng còn là nguyên nhân bên trong đòi hỏi mỗi đảng viên và cán bộ phải “Nâng cao đạo đức cách mạng, quyét sạch chủ nghĩa cá nhân”.Mỗi cán bộ, đảng viên đã nêu cao tấm gương đạo đức cách mạng thì nhất định toàn dân sẽ tin tưởng, một lòng một dạ đi theo Đảng, đem hết công sức và tài trí đưa cách mạng đến thắng lợi. Đây chính động lức nội sinh đảm bảo cho cách mạng thành công. Sự thắng lợi của cách mạng nước ta từ khi có Đảng lãnh đạo đến nay đã chứng minh rõ quy luật đó.
          Nhưng đạo đức cách mạng, trong tư tưởng của Bác, rất sâu sắc và rộng lớn, được thể hiện tập trung ở yêu cầu nhiều mặt của hệ thống các chuẩn mực đạo đức (còn gọi là tiêu chuẩn, quy phạm, quy tắc đạo đức). Có cả những chuẩn mực đạo đức cơ bản, rất sâu sắc, trừu tượng; lại có cả những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể. Hệ thống các chuẩn mực đạo đức cụ thể này chính là sự cụ thể hoá các chuẩn mực đạo đức cơ bản, gắn liền với suy nghĩ và hành vi của con người, nên rất dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Do là sự cụ thể hoá của các chuẩn mực đạo đức cơ bản, nên khi đã thấm nhuần và thực hành tốt các chuấn mực đạo đức cụ thể thì cũng có nghĩa là đã đáp ứng được yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức cơ bản. Xuất phát từ đặc điểm của tư duy và hành động của đại đa số nhân dân, đảng viên và cán bộ nước ta, Bác đã kỳ công nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để chỉ ra hệ thống các chuẩn mực đạo đức cách mạng cụ thể ấy là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bác đã có bài viết chuyên về cần, kiệm, liêm, chính để giải thích rõ yêu cầu của mỗi chuẩn mực. Nghiên cứu cách viết của Bác về các chuẩn mực này sẽ thấy một điều thú vị - một sáng tạo rất tinh tế của Bác: Khi nhằm giải thích rõ từng chuẩn mực thì Bác tách chúng bằng dấu phẩy(cần, kiệm, liêm, chính), có khi có cả xuống dòng. Nhưng khi đòi hỏi phải nhận thức và thực hiện các chuẩn mực đó một cách đồng bộ, chỉnh thể, liên thông (nghĩa là không thể tách rời,  khu biệt riêng lẻ từng chuẩn mực) để hợp thành phẩm chất đạo đức cách mạng, thì Bác viết các chuẩn mực ấy liền nhau, không đặt dấu phẩy giữa chúng (cần kiệm liêm chính)[7]. Như vậy, thấm nhuần và nêu cao tấm gương đạo đức “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” mới chỉ đạt được một phẩm chất của đạo đức cách mạng. Để “thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, Bác còn yêu cầu “phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” Nghĩa là suốt đời phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Bất cứ cái gì có lợi cho dân phải hết sức làm, bất cứ cái gì có hại cho dân phải hết sức tránh  – “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Chỉ có như vậy mới được coi là “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, mới“xứng đáng là người lãnh đạo” của nhân dân và mới có thể “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” khi Đảng ta đã trờ thành một đảng cầm quyền.



[1] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, T.12, tr. 512
[2] - Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, T.10, tr. 5
[3] - Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội , 2000, tập 8, tr.215
[4] - Hồ Chí Minh: toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội , 2000, tập 12, tr.510
[5] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 12, tr.187
[6] Nguyễn Trãi đã nói lạicâu này của Tuân Tử (Tuân Huống thời xuân thu chiến quốc của Trung Quốc cổ đại) để cảnh tỉnh thái tử con vua Lê Lợi
[7] Ở cả hai bản di chúc (năm 1965 và năm 1969) Bác đều viết các chuẩn mực này liền nhau (cần kiệm liêm chính)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...