Ngày
13 – 1 – 1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100 về cải tiến công tác
khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp
tác xã (HTX) nông nghiệp.Trong hoàn cảnh thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi cấp
thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Trung ương còn có nhiều ý kiến trái
chiều, thì Chỉ thị 100: “ là một bước đột phá quan trọng trên con đường tìm tòi
đổi mới”[1]. Vấn đề đặt ra ở đây là:
Khi mà trong Trung ương còn có nhiều ý kiến chưa đồng thuận, đồng chí Trường
Chinh cũng chưa mặn mà với Chỉ thị 100[2], thì ai là người sớm nhận
thức được yêu cầu của thực tiễn và tổ chức thực tiễn để “kiềm nghiệm chân lý”?
Ai là người dũng cảm, cả quyết đứng ra nhận trách nhiệm tổ chực dự thảo và tổ
chức thực hiện thành công Chỉ thị 100? Người đó, vào cuối năm 1979 đến đầu năm
1981, chính là đồng chí Võ Chí Công, bấy giờ đang là ủy viên Bộ chính trị, Phó
Thủ tướng phụ trách khối nông, lâm, hải sản. Động chí Võ Chí Công, chẳng những
là nhà lãnh đạo đứng đầu Liên khu năm, một chủ tướng lừng lẫy trong chiến tranh
cách mạng, mà còn là một nhà lãnh đạo chính trị, kinh tế suất sắc của Đảng và
Nhà nước ta trong thời bình. Những cống hiến to lớn của Đồng chí trong lãnh đạo
xây dựng và phát triển kinh tế, trước và sau Đại hội VI của Đảng, đều bắt nguồn
từ việc tìm tòi và giải đáp những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xây dựng và
phát triển kinh tế nước ta lúc bấy giờ
Nhìn lại lịch sử cho thấy: Từ
năm1965 đến 1968, ở miền Bắc, cách khoán gần như khoán trong Chỉ thị 100 đã được
bà con xã viên ở nhiều HTX của tỉnhVĩnh Phúc thực hiện và được coi là: “khoán
chui” vì trái với đương lối tập thể hóa nông nghiệp của Đảng. Cách làm của Vĩnh
Phúc, nếu được mở rộng, có thể dẫn đến nguy cơ làm tan rã các HTX, khiến cho miền
Bắc không thực hiên được nhiệm vụ hậu phương lớn, chi viện sức người, sức của
cho tiền tuyến, mà phần đóng góp chủ yếu lúc đó vẫn thuộc về các HTX và bà con xã
viên . Vì vậy, Trung ương Đảng không chấp nhận “khoán chui” lúc này cũng là hợp
lý[3]
Sau đại
thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh (Xuân-Hè 1975), lịch sử nước ta đã bước sang
trang mới. Nước nhà độc lập thống nhất chưa được bao lâu, nhân dân ta đã phải
đương đầu với hai cuộc chiến tranh biên giớ và cuộc bao vây cấm vận kéo dài của
các thế lực thù địch. Bên cạnh những khó khăn khách quan, chúng ta đã mắc phải
“những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chú trương, chính sách lớn, sai lầm về
chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”, trong đó có vấn đề xử lý không đúng đắn
mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất ( LLSX) và quan hệ sản xuất (QHSX). Chúng
ta đã vận dụng máy móc cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan
liêu, bao cấp, loại bỏ kinh tế thị trường của Liên Xô “mà trước đây chúng ta vẫn
nghĩ là chân lý tuyệt đối”. Chẳng bao lâu, hậu quả đã thể hiện rõ rệt: vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80, đất
nước ta đã phải trực diện đối đầu với một cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội ngày
càng sâu sắc. Kinh tế sa sút, làm không đủ ăn, thu không đủ chi, xuất không đủ
nhập. Lương thực và những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu đều vô cùng thiếu thốn.
Năm 1979, chúng ta phải nhập khẩu 1,8 triệu tấn lương thực nhưng vẫn không đủ để
cung cấp cho nhu cầu của nhân dân. Lạm phát phi mã lên tới 774,0%, giá cả leo
thang đến chóng mặt, nhu cầu quốc phòng tăng đột biến, tích lũy trong nước giảm
sút, nguồn vay và viện trợ từ bên ngoài ít dần, trong khi nhu cầu khôi phục và
xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội rất lớn và cấp bách…Nghiêm trọng nhất là
người lao động không hăng hái lao động, nhiều nguồn lực xã hội bị bỏ phí, xã
viên để nhiều đất hoang hóa, chỉ chăm lo trên ruộng đất 5%, năng suất cây trồng
trên phần ruộng của hợp tác xã rất thấp. đời sống của cán bộ và nhân dân lâm
vào tình trạng khó khăn kéo dài; nhiều giá trị đạo đức-tinh thần bị xói mòn.Tình
trạng lãng phí, tiêu cực, lợi dụng chênh lệch giá để lấy cắp của cải Nhà nước,
cửa quyền, sách nhiễu diễn phổ biến ở nhiều nơi. Nhân dân lo lắng, giảm sút lòng
tin,v.v..
Khi đó, nhiều câu hỏi từ thực tiễn đặt ra cho Đảng và Nhà
nước ta là vì sao có tình hình đó? Nguyên nhân là do đâu ? và giải pháp thoát
khỏi bế tắc là thế nào? Trong
bối cảnh như vậy, nếu những đồng chí có trách nhiệm cao nhất của Đảng nhớ lại
bài học “khoán chui” ở Vĩnh Phú và một số nơi khác những năm 1965 – 1968, đồng
thời nghiên cứu kỹ Chính sách kinh tế mới (NEP) của V. Lênin[4] thì có thể công cuộc đổi mới
ở nước ta đã diễn ra sớm hơn? Giả định vẫn chỉ là giả định. Đường lối kinh tế của
Đảng về cơ bản vẫn chưa có gì thay đổi
Lúc này, trước yêu cầu bức bách của
cuộc sống, lãnh đạo của một số tỉnh đã cùng một số đơn vị cơ sở mạnh dạn thí điểm
thực hiện “khoán chui” trong nông nghiệp khác với chủ trương chung của Trung
ương. Hầu hết nghững nơi tiến hành thử nghiệm đều thu được một số kết quả khả
quan đối với sản xuất, lưu thông, phân phối và đồi sống. Cùng day dứt trước
tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng xấu đi, có khá nhiều đồng chí
là ủy viên Trung ương và ủy viên Bộ Chính trị của Đảng rất tích cực xuống tận
cơ sở sản xuất để tìm nguyên nhân và giải pháp tháo gỡ. Tuy còn một vài ý kiến
thận trọng, nhưng tất cả đều tỏ ý ủng hộ, khuyến khích và tạo điều kiện giúp đỡ.
Ví dụ: đồng chí Phạm Hùng, những ngày đầu thánh1năm1981, về kiểm tra tình hình
Hậu Giang, hỏi về nông nghiệp. ban lãnh đạo tỉnh cho biết có ba mô hình sản xuất giỏi, làm theo
kiểu mới, có đồng tình,có phản đối. “Số người phản đối ở trong tỉnh có, ngoài tỉnh
có và ở cả Trung ương”[5]. Mô hình thứ nhất là nông
trường quốc doanh Sông Hậu, mới thành lập.Thứ hai là Tập đoàn 9 ở ấp Lung Đen,
xã Kế An, huyện Kế Sách. Thứ ba là xã Trường Khánh, huyệnLong Phú. Đồng chí Phạm
Hùng đã xuống tận các mô hình này để điều tra, khảo sát, thăm hỏi bà con và động
viên, khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của bà con cũng như của cán bộ lãnh
đạo trong tỉnh. Khi ban lãnh đạo tỉnh xin ý kiến chỉ đạo, đồng chí Phạm Hùng
Nói:“Hợp tác hóa nông nghiệp, nguyên tắc là phải tập thể hóa tư liệu sản xuất,
các anh làm chưa đúng, các anh bị phê bình cũng có mặt đúng. Nhưng hợp tác cũng
có một nguyên tắc nữa mà những người phê bình các anh chưa quan tâm, đó là quan
hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của sức sản xuất. Hơn nữa, hợp
tác hóa phải làm cho năng suất và sản lượng vật nuôi, cây trồng tăng. Cho nên,
đối với nông trường Sông Hậu, Tập đoàn 9 có những nét rất mới về tập thể hóa… Sự
nghiệp hợp tác hóa phải lâu dài, phải giáo dục sao cho người nông dân thật sự tự
giác…Chỉ có sự tự giác của nông dân mới đưa sự nghiệp hợp tác hóa đến thành
công. Chính vì thế, Lênin đã nói đại ý: Hãy để cho người nông dân suy nghĩ trên
mảnh đất của mình”[6].
Đồng chí Võ Chí Công là người có trách nhiệm trực tiếp cao nhất, sáng tạo nhất,
nổi bật nhất, dũng cảm nhất, giám nghĩ, giám làm và năng động nhất trong số những
nhà lãnh đạo tiên phong ấy
Chiến tranh
và hòa bình là hai trạng thái xã hội, tuy có nhiều điểm chung, nhưng quy luật vận
động về cơ bản vẫn có khác biệt. Nhiều quan niệm cho rằng một vị tướng tài chỉ
giỏi bố trận, điều binh trong chiến tranh, khó có thể giỏi lãnh đạo xây dựng
kinh tế trong thời bình. Tâm lý ấy đối với đồng chí Võ Chí Công, mới đầu ít nhiều
cũng bị ám ảnh, nhưng Đồng chí đã vượt qua được. Đồng chí nói rõ: “thời chiến
khác với thời bình, giờ đây với nhiệm vụ mới, công việc mới, có thể nói là làm
trái nghề, nhưng là một Ủy viên Bộ Chính trị và Phó Thủ tướng tôi không thể nào
từ thác mà phải đề cao trách nhiệm, vừa học vừa làm, phải suy nghĩ, nghiên cứu
nhiều để làm tròn nhiệm vụ Đảng và nhân dân đã giao phó”[7]. Trên tinh thần ấy, Đồng
chí đã dầy công nghiên cứu thực trạng nông nghiệp trên cả nước và đã phát hiện
ra những mâu thuẫn lớn, như những nghịch lý rất khó tin, đã hiện diện đang dần
chi phối đại cuộc. Đó là: Cả nước, đang trên đà thừa thắng, bắt tay vào xây dựng
CNXH mà sao kết quả của thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ tư
so với chỉ tiêu còn ở mức quá xa? khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng nghiêm
trọng? Vì sao cũng những người thanh niên trong các hợp tác xã ở miền Bắc vào
miền Nam
đánh giặc lại rất hăng hái, hết sức tích cực và sẵn sàng chịu đựng gian khổ hy
sinh, thì nay lao động để tiến lên CNXH trong các hợp tác xã lại tiêu cực như vậy?
Chân lý không trìu tượng mà là cụ thể. Quy luật chung có thể giải tỏa những nghịch
lý đó là ở chỗ có phát huy được động lực tinh thần và vật chất của mỗi người
hay không? Có quy tụ được động lực ấy của mỗi người để tạo thành sức mạnh vô địch
của toàn dân đoàn kết được hay không? Đồng chí Võ Chí Công nói rõ: “Có lẽ đánh
giặc, cứu nước là động lực nên có tinh thần tích cực, còn trong lao động sản xuất
phải chăng ta* chưa tạo được động lực”[8]. Đây đúng là chân lý vì đã
được thực tiễn kiểm nghiệm. Lý giải vấn đề vì sao “ta chưa tạo được động lực” dần
dần đã có sức thuyết phục: Ở đây“nguyên nhân khách quan có nhiều, khó khăn
khách quan là rất lớn, nhưng mọi người cũng cảm nhận thấy rằng chính sách kinh
tế của Đảng ta có gì đó sai lầm, không phù hợp, không được lòng dân, vừa cản trở
sản xuất, vừa gây khó khăn cho đời sống”[9]. Vấn đề còn lại, cấp bách
nhất lúc này, là tìm giải pháp làm thế nào để “ta tạo được động lực”?
Là người đứng đầu khối nông, lâm, hải sản,
chịu trách nhiệm trực tiếp cao nhất trong việc giải đáp vấn đề này, mặc dù lúc
đầu cũng “thấy hơi ngan ngán”, nhưng đồng chí Võ Chí Công đã phát huy tinh thần
chủ động, tích cực, đi sâu đi sát, sáng tạo, giám nghĩ giám làm và những bài học
kinh nghiệm quý báu trong hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ với quyết
tâm hoàn thành nhiệm vụ. Đồng chí nói: “lần này tôi quyết tâm làm theo phương
pháp đánh giặc: xuống sát chiến trường, để hiểu địch, hiểu ta để chỉ đạo tác
chiến. Do đó không xuống tỉnh, không xuống huyện mà tôi đi thẳng xuống một số hợp
tác xã. Phần lớn thời gian tôi gặp các đội trưởng, đội phó, đi vào một số gia
đình xã viên hỏi thật kỹ, cụ thể cách làm của hợp tác xã và ruộng đất 5%, v.v.,
đi với đồng bào ra ruộng, xem cách làm, gợi ý cho họ phát biểu…đến một số nhà hỏi
xem cách làm của họ”[10]… Thông qua những chuyến
đi thực tế khách quan và quý báu ấy, cái nút gỡ rối cuối cùng rồi cũng được hiện
ra: Đó không phải là cái gì cao xa mà là bát cơm, manh áo hàng ngày, là lợi ích
thiết thực của nhân dân – “Dân dĩ thực vi tiên” như Bác hồ đã dậy, là nguyện vọng
thường nhật của con người trong lao động sản xuất, khi mà nước nhà đã thống nhất
và mỗi người phải tự lực xây dựng cuộc sống mới. Động lực từ đây mà ra, từ đây
mà có. Xã viên HTX, khi thấy có cán bộ Trung ương đến tận tình lo lắng cho dân,
đều cho biết: làm công nhật và làm công
điểm cho HTX thì dù có cố gắng làm hơn nữa cũng không đem lại lợi ích thích
đáng cho mình, còn làm khoán cũng như làm ruộng 5% người lao động thấy có lợi
hơn hẳn nên rất hăng hái. Gần dân, nắm được nguyện vọng của dân, đồng chí Võ
Chí Công khẳng định: “Qua đó tôi thấy phải khoán ruộng đất cho xã viên mới tạo
được động lực và xóa được tiêu cực”[11]. Đây là một quyết định
dũng cảm, phản ánh đúng phong cách của một vị chủ tướng cầm quân trên chiến trường.
Sau khi điều nghiên tình hình cụ thể
đồng chí Võ Chí Công triệu tập một số đội trưởng, xã viên HTX
để thảo luận các cách khoán. Đồng chí gợi ý một số phương án để mọi người thảo
luận, chẳng hạn HTX giao ruộng cho xã viên cày, cấy hoặc làm cỏ, thu hoạch, còn
thủy lợi HTX đảm nhiệm…Qua thỏa luận, mọi người đều đồng tình phương án khoán đến
người lao động. Đồng chí đã tổ chức làm thí điểm đầu tiên ở một số HTX và kết
quả đều vượt xa yêu cầu. Chưa yên tâm, Đồng chí Võ Chí Công còn liên hệ với đồng
chí Hoàng Quy, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc, một tỉnh trước đây đã nổi tiếng về
“khoán chui” đề nghị cho làm thí điểm khoán đến người lao động ở xã Thô Thụy và
Vĩnh Lạc, huyện Vĩnh Tường. Kết quả khoán đều rất tốt.Tuy vậy, đồng chí Võ Chí
Công vẫn chưa dám báo cáo với Trung ương. Nhiều người nói đây là làm “chui”, Đồng
chí đã trả lời: “Lĩnh vực này là trách nhiệm của tôi, tôi không làm trái đường
lối, chủ trương của Đảng, hơn nữa đây mới là thí điểm”[12] vì đây là cách làm để thực
hiện Nghi quyết Hội nghị Trung ương làn thứ chín của Đảng. Tin vào sự chỉ đạo
đúng đắn của mình, Đồng chí còn gợi ý cho thực hiện khoán ở tất cả các HTX
trong tỉnh nếu có đủ cán bộ hướng dẫn và có hội nghị tập huấn chỉ đạo chặt chẽ.
Thời kỳ này, nhiều HTX ở Hải Phòng, Nghệ Tĩnh, Hậu Giang…cũng thực hiện “khoán
chui”, nhưng còn đơn giản chưa thoát ra khỏi cơ chế cũ. Đồng chí Võ Chí Công đã
về Hải Phòng nghiên cứu thêm và tổ chức một cuộc hội nghị chuyên bàn về khoán để
rút kinh nghiệm về chỉ đạo và tổ chức công tác khoán, vì cách làm có bài bản mới
mang lại hiệu quả
Sự nở rộ của phong trào khoán mới giúp cho Bộ Chính trị và Thường vụ Chính phủ
có cơ sở để nghiên cứu xem xét, nhất là sau khi nghe đồng chí Võ Chí Công báo
cáo kết quả về khoán thí điểm ở Vĩnh Phú và Hải Phòng. Bộ Chính trị và Thường vụ
Chính phủ thảo luận nhiều, về căn bản nhất trí với khoán mới, nhưng đi vào cụ
thể thì còn nhiều ý kiến khác nhau. Đồng chí Võ Chí Công nhớ lại: “cuối cùng
các anh giao cho anh Nghị và tôi trao đổi thêm, xây dựng dự thảo Chỉ thị 100.
Anh Nghị bảo tôi dự thảo, anh sẽ góp ý kiến. Dự thảo xong, anh Nghị có một số ý
kiến khác với dự thảo, như vấn đề khoán nhóm. Cuối cùng tôi thỏa hiệp để cho Chỉ
thị 100 được ban hành”[13]. Giữa tháng 1- 1981, Chỉ
thị 100 được ban hành. Quần chúng nhân dân nhiệt liệt tán thành. Phong trào
khoán mới sôi nổi, tràn đầy phấn khởi đi vào thực tế. Cuối cùng là khoán đến
người lao động. Những ý kiến khác trong Chỉ thị 100, như khoán nhóm, cũng không
còn sức sống. Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện Chỉ thi 100 đã có nhiều ý
kiến phản đối gay gắt. Theo họ, khoán kiểu này là phá HTX, xóa bỏ thành quả 20
năm xây dựng HTX của Đảng, phá hoại cơ sở XHCN ở nông thôn và đi đến xét lại…Nhưng
“thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý”. Rõ ràng rằng chưa có một chủ trương nào
của Đảng khi đó, trong lĩnh vực nông nghiệp, lại được nhân dân cả nước tiếp thu
nhanh nhậy, mau chóng như chủ trương khoán mới trong Chỉ Thị 100 và dấy lên một
phong trào thi đua lao động sản xuất với khí thế mới, đưa lại nhiều kết quả thiết
thực, mở ra nhiều triển vọng mới tốt đẹp, “phù hợp lòng dân - ý Đảng”
Có thể nói, Chỉ thị 100 là thành quả chung của
nhân dân và tập thể ban lãnh đạo của Đảng, nhưng công đầu thuộc thuộc về đồng
chí Võ Chí Công. Bởi vì: “Họa và phúc phần lớn do con người gây ra. Trước tai họa, chỉ rõ lối ra
là phúc. Chuyển họa thành phúc là người lãnh đạo giỏi. Võ Chí Công đã xuất hiện
đúng lúc lịch sử có nhu cầu và đã đáp ứng đúng nhu cầu ấy”[14] trong quá trình
kiên trì, liên tục học hỏi những cái hay, cái tốt đẹp của đồng chí, đồng đội;
trước hết là gắn bó máu thịt với chiến sĩ và nhân dân lao động, biết chắt lọc
và phát huy những sáng tạo của họ; biết vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm quý
báu của mình trong thời chiến vào thời bình; biết lăn vào thực tiễn và tổng kết
thực tiễn để nắm bắt cái mới trên tinh thần luôn luôn ở thế chủ động tiến công,
rất năng động, sáng tạo, biết tiến biết lui, vừa cứng rắn vừa mềm dẻo, dũng cảm,
giám nghĩ, giàm làm với tinh thần trách nhiệm và đạo đức cách mạng cao cả. Vì vậy,
Chỉ thị 100 cũng là cống hiến đầu tay của đồng chí Võ Chí Công, chẳng những cho
Đảng, cho cách mạng và cho nhân dân ta trong những năm đầu cả nước thống nhất đi lên CNXH, mà còn
hàm chứa nhiều giá trị lý luận và thực tiễn cho ngày nay và mai sau:
- Tạo bước đột phá trên con
đường tìm tòi đổi mới hợp quy luật
Chỉ thị 100, tuy chưa phải
đã có tư duy mới đầy đủ, cơ chế quản lý hoàn chỉnh, nhưng đúng là một bước đột phá trên
con đường tìm tòi đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Việc khoán sản phẩm đến người
lao động là phù hợp với quy luật khách quan và bước đi đầu tiên trong chặng
đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên CNXH. Đây lá sự điều chỉnh một bước theo
quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX, trong
điều kiện LLSX nước ta còn lạc hậu lại phát triển chưa đồng bộ và rất không đều.
Do đó mà bước đầu đã đáp ứng được nguyện vọng của nông dân, tạo ra được động lực
mạnh mẽ trong phong trào đẩy mạnh phát triển sản xuất, phân công lao động hợp
lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên đất đai, vật tư, kỹ thuật hiện có, ngăn chặn được tiêu cực…Tuy nhiên,
trong điều kiện cơ chế quản lý kinh tế theo lối hành chính, kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu, bao cấp của Nhà nước vẫn chưa được thóa gỡ, nên quá trình thực
hiện Chỉ thị 100 đã bộc lộ nhiều khuyết tật: Nhiều chính sách còn cản trở lẫn
nhau, các quỹ đóng góp ngày một tăng, mức chi tiêu cho bộ máy gián tiếp cồng kềnh,
kém hiệu lực của HTX ngày một nhiều, mức huy động của Nhà nước tăng theo, sản
phẩm để lại cho người lao động giảm dần.v.v..làm cho tình trạng tiêu cực nảy
sinh , sản xuất nông nghiệp bắt đầu giảm sút trở lại. Như vậy, từ thực tiễn thực
hiện Chỉ thị 100 lại tiếp tục đặt ra yêu cầu cấp bách phải đổi mới đồng bộ cơ
chế quản lý kinh tế ở nước ta…góp phần lớn chuẩn bị, cả về lý luận và thực tiễn
cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI thành công…
- Nắm bắt và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn là quy
luật thành công
Chính từ toàn bộ cuộc đời hoạt động thực tiễn của đồng chí Võ Chí
Công cho thấy giá trị của bài học lý luận quý giá này. Đồng chí Võ Chí Công đã
nói với những cán bộ, chiến sĩ xung quanh mình rằng: “Muốn ra một quyết sách gì
thì luôn đi sâu vào thực tế và phải nghe thực tế lên tiếng mới làm” và “Chỉ có
kết quả của thực tiễn, kết quả của lòng dân mới là bằng chứng thuyết phục nhất”.
Tổng kết này của Đồng chí đã được thưc tiễn kiểm nghiệm cả trong thời kỳ lãnh
đạo chiến tranh cách mạng ở Liên Khu Năm cũng như trong thời bình xây dựng CNXH
trên cả nước với những quyết định sáng tạo, giám làm, giám chịu. Đó là những
quyết định: cương quyết ủng hộ cuộc
nổi đậy và khởi nghĩa Trà Bồng - cuộc khởi nghĩa sớm nhất ở Nam Trung bộ (1959),
ráo riết chỉ đạo chuyển miền núi Quảng Ngãi, Quảng Nam thành chiến khu chống
địch. Từ đó đưa cuộc kháng chiến ở đây phát triển đến thắng lợi cuối cùng; xuân
Mậu Thân 1968, đánh Đà Nẵng đến ngày thứ bảy… quyết đoán chuyển lực lượng về
dọn sạch hậu phương miền núi và củng cố nông thôn, tránh được tổn thất nặng khi
địch phản kích điên cuồng sau đó; xuân 1975, sau đòn hiểm Buôn Ma Thuột, nhanh
chóng theo dõi và nhận ra dấu hiệu địch bỏ Tây Nguyên, đề nghị đánh ngay Đà
Nẵng, góp phần tạo một bước ngoặt quyết định đưa đến toàn thắng lịch sử 30
tháng 4, giải phóng hoàn toàn miền Nam; hòa bình, quyết định thí điểm “khoán
chui”, dự thảo Chỉ thị 100 đưa đến sự giải phóng có tính quyết định lực lượng
sản xuất, làm thay đổi cục diện đang bế tắc của xã hội. Một lần nữa Đồng chí lại
đứng về phía thực tiễn, về phía dân, góp phần tạo nên bước vượt thoát ngoạn mục
của đất nước…
-
Gắn bó máu thịt với nhân dân
Chỉ gắn bó máu thịt với nhân dân mới nắm bắt được yêu cầu của thưc tiễn.
Thực tiễn là tổng hợp những hoạt động vật chất cụ thể của nhân dân trong quá
trình sang tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, bảo đảm sự sinh tồn, phát
triển của mỗi con người, của mỗi quốc gia dân tộc và nhân loại. Yêu cầu của
thực tiễn chính là yêu cầu của nhân dân, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân
dân - yêu cầu của sinh tồn và phát triển. Vì vậy, bất kỳ đường lối, chủ trương,
chính sách nào hợp với lòng dân, đáp ứng được nhu cầu và tâm tư nguyện vọng của
nhân dân đều được nhân dân tin theo và thi đua nhau thực hiện đến thành công.
Đó là những đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn. Ngược lại sẽ là sai
lầm, bị nhân dân thờ ơ, quay lưng, thậm chí chống lại. Khi đó, một đảng cách
mạng chân chính phải nhìn thẳng vào sự thật, nhận rõ sai lầm và quyết tâm sửa
sai, đổi mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giáo huấn cho những người học trò của
mình như vậy với chân lý: “Nước lấy dân làm gốc”. Những cống hiến to lớn, có
giá trị thiết thực và lịch sử của đồng chí Võ chí Công cho Đảng, cho cách mạng
và nhân dân ta, cả trong lãnh đạo chiến tranh cũng như trong lãnh đạo xây dựng
kinh tế, đều bắt nguồn từ tấm gương suốt đời “ cúc cung tận tụy” phấn đấu vì
độc lập cho dân tộc và hạnh phúc cho nhân dân. Đồng chí tâm sự: “Nghiệm ra khi
có chủ trương của Đảng ở trên mà bên dưới quần chúng cứ xôn xao không chịu, thì
rồi cuối cùng Đảng phải nghe theo và cách mạng thắng lợi!”. Đồng chí luôn tin
rằng sáng tạo trong cách mạng và trong đời sống bao giờ cũng là dân, bởi vì chỉ
có dân mới là thực tiễn, là đời sống thực đang vận động, và Đảng giỏi là khi
Đảng biết nghe dân. Đảng sáng tạo là vì Đảng nghe được dân, tổng kết được ý chí
và trải nghiệm của dân để chỉ đạo lại đời sống. Bài học lớn mà Đồng chí để lại cho chúng ta là bài học về
dân. Suốt đời, Đồng chí chỉ có một nỗi sợ mất dân. Gần dân, luôn gắn với dân,
nghe dân, học dân, tin dân, luôn dựa vào dân thì khó khăn mấy rồi cũng vượt qua
được và làm cho đất nước, dân tộc đứng vững, phát triển trước mọi thách thức…
Đồng chí Võ Chí Công thật xứng đáng là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
[1] . Đảng
cộng sản Việt Nam :
Văn kiện Đảng toàn tập, nxb.CTQG, Hà Nội – 2005, tập 42, tr. VI
[2]. Đồng chí Trường-Chinh không trực tiếp
tham gia vào việc nghiên cứu và ban hành Chỉ thị 100 của Ban Bí thư và Quyết định
25/CP của Hội đồng Bộ trưởng. Chúng ta đều biết trước đó, chính đồng chí đã từng
phê phán việc khoán hộ trong hợp tác xã nông nghiệp ở Vĩnh Phú, xem đó là việc
làm sai lầm, đi ngược lại chủ trương hợp tác hóa của Đảng.
[3] .Năm 1965, là thời điểm Mỹ ồ ạt đổ quân vào nam Việt
Nam và đưa chiến tranh bằng không quân và hải quân ra miền Bắc. Toàn bộ tâm lực,
ý chí của quân dân ta là “quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”. Miền Bắc phải
tập trung làm tốt nhiệm vụ hậu phương lớn, đảm bảo chi viện sức người, sức của
cho tiền tuyến lớn, CNXH ở Việt Nam
chưa thật sự vận hành theo quy luật của chính nó
4.Trong
nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982 – 1986) , đồng chí Trường Chinh
mới trở lại với kinh điển, nghiên cứu kỹ lại Chính sách kinh tế mới của Lênin –
một chính sách nhằm điều chỉnh những biểu hiện “tả” khuynh của “Chính sách cộng
sản thời chiến”…vã xem sét kỹ đường lối của cách mạng nước ta trước năm 1980.
[8].
Võ Chí Công: Trên những chặng đường cách
mạng (Hồi ký), S.Đ.D, tr. 294 - 295
[9]
. Đồng chí Trường-Chinh nhà lãnh đạo kiệt xuất của
cách mạng Việt Nam ,
nxb.LLCT,H -2007,tr.34
10. Võ Chí Công: Trên những
chặng đường cách mạng (Hồi ký), S.Đ.D,
tr. 295
11. Võ Chí Công: Trên những
chặng đường cách mạng (Hồi ký), S.Đ.D,
tr. 296
13.Võ Chí Công: Trên những
chặng đường cách mạng (Hồi ký), S.Đ.D,
tr. 297 - 298
[14] .hoàng Tùng ,Nguyên
Bí thư Trung ương Đảng: Võ Chí Công - Người có mặt đúng lúc lịch sử có nhu cầu (Theo Báo Quảng Nam ), Báo Dân trí 9, tháng 9 năm
2011
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét