Cho đến nay, văn hóa được hiểu với
nghĩa chung nhất là “ tự nhiên xã hội hóa”, hay “Văn hóa là tất cả những cái gì
không phải của tự nhiên”, cụ thể hơn là “ tích hợp những cái do con người sáng
tạo ra và mang bản chất xã hội”...Cuối năm 1943, trên cơ sở tổng kết lý luận về
văn hóa và phân tích rõ nguồn gốc, vai trò của các loại sản phẩm do con người
sáng tạo ra, Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm toàn diện và cụ thể về văn
hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nhệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn”[1].
Đây là quan điểm về văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm tất cả các mặt của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý.v.v.. Ở vào thời gian
này, khi mà tình hình trong ngước và thế giới đang tạo ra thời cơ cho cách mạng
dân tộc giải phóng nước ta giành thắng lợi đến gần, Hồ Chí Minh đã chủ trương
xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam với năm điểm lớn:
1-Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự
cường
2-Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình,
làm lợi cho quần chúng
3-Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có
liên quan đến phúc lợi của nhân dân trong xã hội
4-Xây dựng chính trị: dân quyền
5-Xây dựng kinh tế
Nhưng đây là lần duy nhất Hồ Chí Minh
xác định văn hóa theo nghĩa rộng. “Định nghĩa này đã không được Người nhắc lại
về sau này”[2]
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, văn hóa được Hồ
Chí Minh “ xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng
tầng của xã hội”[3],
được hình thành trên cơ sở hạ tầng của xã hội . Theo Người, văn hóa là một kiến
trúc thượng tầng, nhưng cơ sở hạ tầng của xã hội có kiến thiết rồi, văn hóa mới
kiến thiết được và có đủ điều kiện phát triển được, hay xây dựng kinh tế để tạo
điều kiện cho việc xây dượng và phát triển văn hóa. Người chỉ rõ: “Muốn tiến
lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói
phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế
kinh tế phải đi trước…”[4]. Như vậy, văn hóa là một
hình thái ý thức xã hội, “ được đặt ngang với chính trị, kinh tế, xã hội, tạo
thành bốn mặt trận chủ yếu của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội). Đây là quan điểm văn hóa theo nghĩa hẹp và là quan điểm phổ biến hiện nay
ở nước ta và trên thế giới
Với vai trò là nền tảng tinh thần của
xã hội, văn hóa bao gồm ba lĩnh vực chủ yếu: Văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ
và văn hóa đời sống. Với ba lĩnh vực của đời sống tinh thần rộng lớn này, văn
hóa bao quát ba chức năng cơ bản:
Một
là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người.
Hai là, nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp,
những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người phấn đấu đạt tới cái chân, cái
thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện con người vươn tới “làm chủ bản thân,
làm chủ xã hội và làm chủ tự nhiên”
Với tính cách là nền tảng tinh thần của
xã hội, văn hóa gắn chặt với con người và góp phần ngày càng lớn quy định bản
chất của con người. Nếu so sánh động vật với người, thật dễ nhận thấy ưu thế tự
nhiên, bẩm sinh thuộc về động vật: Sức mạnh cơ bắp của voi vượt trội sức mạnh
cơ bắp của người; về khả năng bay, đa số các loài chim đều có thể, người không
thể; về thị giác, mắt người thua xa mắt chim ưng; về khứu giác, mũi người không
bằng mũi chó…Nhưng mọi sự so sánh như vậy chỉ là khập khiễng. Ngay từ khi con
người cất tiếng chào đời cũng là khi một kỷ nguyên mới bắt đầu – kỷ nguyên con
người chinh phục tự nhiên và trở thành chúa tể thống trị tự nhiên. Sở dĩ con
người gánh vác được sứ mệnh vĩ đại này là nhờ con người có năng lực tinh thần đặc
biệt mà chỉ con người mới có. Năng lực tinh thần đặc biệt này giúp cho con người
thỏa mãn được những nhu cầu của mình một cách tự giác (có ý thức), vượt ra khỏi
tình trạng hoạt động theo bản năng của động vật. Trong số những nhu cầu và năng
lực tinh thần đó có ba cái cơ bản, quyết định sự tồn tại và phát triển lâu dài
của mỗi con người cũng như của toàn xã hội. Đó là nhu cầu và năng lực hướng tới
cái đúng, cái tốt và cái đẹp. Nhu cầu hướng tới cái đúng (cái chân) làm cho con
người luôn khao khát hiểu biết: hiểu biết về thế giới xung quanh và về bản
thân; hiểu biết về quá khứ, hiện tại và tương lai…Kết quả của sự hiểu biết đó
là tri thức, là sự xuất hiện các nghành khoa học. Trí thức đã kéo dài sức mạnh
vô tận của con người, giúp con người từng bước làm chủ bản thân, xã hội và làm
chủ tự nhiên. Khát vọng hướng tới cái tốt (cái thiện) đã hình thành ở con người
khả năng đồng cảm với mọi người, khả năng biến nỗi đau của đồng loại thành nỗi
đau của cá nhân mình. Khái niệm lương tâm đươc hình thành từ đó. Chỉ có con người
mới có lương tâm. Đánh mất lương tâm, con người sẽ quay về là dã thú. Khát vọng
hướng tới cái đẹp (cái mỹ) là hướng tới sự hài hòa, cân đối thể hiện sức sống
lành mạnh ở bên trong. Khái niệm về cái đẹp chứa đựng ý nghĩa về đạo đức cá
nhân và đạo đức xã hội, không chấp nhận lối sống buông thả và những tác nhân dẫn
tới hủy hoại cuộc sống
Khi các hoạt động của con người hướng
tới chân, thiện, mỹ thì các hoạt động đó tạo ra các giá trị. Giá trị là những
tiện ích đạt được khi con người sử dụng các sản phẩm văn hóa. Nói đến văn hóa
là nói đến các hệ giá trị, cả giá trị của văn hóa vật thể và phi vật thể. Thiếu
giá trị sẽ không có văn hóa. Nói đến giá trị là nói đến những chuẩn mực xã hội
mà con người đã hình thành nên trong quá trình tồn tại và phát triển của mình. Đó
là những thành tựu về ngôn ngữ, chữ viết (và hệ thống những ký hiệu, tín hiệu
thay cho chữ viết), nghệ thuật, tín ngưỡng tôn giáo, đạo đức, khoa học, kinh tế,
giáo dục.v.v.. Chuẩn mực xã hội của mỗi quốc gia dân tộc đều có những đặc trưng
riêng tạo thành bản sắc văn hóa của dân tộc đó. Những chuẩn mực đó tạo nên sự
liên thông giữa các cá nhân trong một cộng đồng và giữa các thế hệ. Thiếu sự
liên thông đó thì xã hội không thể tồn tại và phát triển được.
Lịch sử tồn tại và phát triển của xã
hội loài người cho thấy: Sản xuất là những hoạt động riêng có, đặc trưng của con người và xã hội loài người, bao gồm ba
quá trình cơ bản: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân
con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau.
Trong đó sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển con người và
xã hội loài người. Theo Ph.Ăngghen, “Điểm khác biệt căn bản giữa xã hội loài
người với loài vật là ở chỗ: loai vật may lắm chỉ hái lượm trong khi con người
lại sản xuất”[5].
Bất cứ qúa trình sản xuất vật chất nào cũng được tiến hành có mục đích nhất định
với những cách thức xác định. Cách thức tiến hành sản xuất vật chất là phương
thức sản xuất. Vậy phương thức sản xuất là những cách thức được con người sử dụng
để tiến hành sản xuất ra của cải vật chất, đáp ứng được nhu cầu tồn tại và phát
triển của con người và xã hội loài người ở mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử
Mỗi phương thức sản xuất đều bao gồm
hai mặt mâu thuẫn biện chứng với nhau là lực lượng sản xuất (LLSX) và quan hệ sản
xuất (QHSX). LLSX là thể thống nhất các yếu tố của người lao động (độ tuổi, sức
khỏe và năng lực nghề nghiệp như: trí thức,
kỹ năng, kinh nghiệm…) với các yếu tố của tư liệu sản xuất (đối tượng lao động,
công cụ lao động và các tư liệu phụ trợ khác…). Như vậy LLSX là toàn bộ các yếu
tố vật chất, kỹ thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ
biện chứng với nhau, tạo ra sức sản xuất xã hội cải biến các đối tượng vật chất
của tự nhiên tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người và xã hội loài người. LLSX là nội dung vật chất của quá trình sản xuất.
Thế nhưng chỉ có LLSX vẫn không thể diễn ra sản xuất vật chất được. Để sản xuất
vật chất được thực hiện cần có QHSX đóng vai trò là hình thức xã hội của phương
thức sản xuất. QHSX là mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất.
QHSX bao gồm ba quan hệ: quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý quá trình sản xuất và
quan hệ phân phối những sản phẩm đã được sản xuất. Tiếp theo diễn ra quá trình
tiêu dùng những sản phẩm ấy của cá nhân và của xã hội. Quá trình tiêu dùng vừa
là kết quả của quá trình sản xuất trước, vừa là tiền đề quy định quá trình sản
xuất tiếp theo – quá trình tái sản xuất ra con người và xã hội loài người. Quá
trình tái sản xuất cứ lặp đi, lặp lại về quy mô, tốc độ, trình độ như thế nào
quyết định sự tồn tại và phát triển của con người cùng với xã hội loài người
như thế ấy
Sự khái quát về văn hóa theo nghĩa hẹp
chỉ như là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội, chỉ là một hình thái ý thức
xã hội, thuộc về kiến trúc thượng tầng; còn phương thức sản xuất với nghĩa là
cơ sở vật chất của đời sống xã hội mà trong đó tổng thể các QHSX, phải phù hợp
với trình độ phát triển của LLSX, thuộc về cơ sở hạ tầng. Nói về hai lĩnh vực
cơ bản này của toàn bộ đời sống xã hội, C.Mác viết: “Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến trúc thựng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức
xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”[6]. Với chân lý này thì kinh
tế là cơ sở hình thành văn hóa, quyết định văn hóa. Nhưng văn hóa cũng tác động
trở lại kinh tế, cùng kinh tế quyết định đời sống vật chất và đời sống tinh thần
của xã hội. Theo chủ đề của bài viết này thì vai trò quyết định của kinh tế đối
với văn hóa sẽ được phân tích sâu hơn
1- Đời
sống kinh tế là cơ sở hình thành đời sống văn hóa
C Mác viết: “…tiền đề đầu tiên của mọi
sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta
phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được
thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để
thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”[7]. Vận dụng sáng tạo tư tưởng
của C Mác vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển
văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải
đi trước…”[8] Cũng vì vậy, có thể khẳng
định rằng: con người với tư cách “người”, được bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
Khái quát ở tầm rộng lớn nhất và cao
nhất về lý luận, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: Tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Đây là một nguyên lý cơ bản trong hệ thống quan niệm duy vật biện
chứng về lịch sử xã hội loài người của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khái niệm tồn tại
xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Các yếu tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội bao gồm: phương thức
sản xuất vật chất và các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý,
khí hậu và dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong một thể thống nhất, thường xuyên
tác động qua lại với nhau tạo thành những điều kiện sinh tồn và phát triển của
xã hội. Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất, quyết định
nhất. Nghĩa là toàn bộ đời sống kinh tế xã hội có vai trò quyết định thường
xuyên đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Khái
niệm ý thức xã hội dung để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định. Theo nội dung và lĩnh vực phản ảnh đời sống xã hội, ý thức xã
hội bao gồm các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức
đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học. v.v…Trong đó, văn
hóa được coi là nền tảng tinh thần của đới sống xã hội với nghĩa nó bao gồm ba
lĩnh vực tinh thần cơ bản: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ và văn hóa đời sống
gắn chặt với ba chức năng quy định đời sống tinh thần của xã hội:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và
tình cảm cao đẹp cho con người.
Hai là, nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp,
những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người phấn đấu đạt tới cái chân, cái
thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện con người vươn tới “làm chủ bản thân,
làm chủ xã hội và làm chủ tự nhiên”
Như vậy,văn hóa là một loại hình sản xuất đặc
trưng của con người và xã hội loài người – loại hình xản xuất ra đời sống tinh
thần.
Tóm lại, tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội – quá trình sản xuất vật chất của xã hội, đời sống kinh tế của xã hội
(phương thức sản xuất vật chất xã hội) quyết định quá trình sản xuất đời sống
tinh thần của xã hội, quyết định đời sống văn hóa của xã hội. Do đó, không thể
tìm nguồn gốc của tư tưởng và tâm lý của con người và xã hội ở bản thân nó,
nghĩa là trong đầu óc con người, mà phải tìm trong đời sống sinh hoạt hiện thực
vật chất của con người và thời đại vật chất của xã hội. Nói theo như C Mác là “
phải giải thích ý thức bằng những mâu thuẫn của đồi sống vật chất, bằng sự xung
đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội với những quan hệ sản xuất xã hội”[9]. Quan điểm duy vật lịch sử
về nguồn gốc của ý thức xã hội, về nguồn gốc của đời sống văn hóa tinh thần xã
hội chỉ ra rằng: tồn tại xã hội, mà trong đó chủ yếu là đời sống kinh tế của xã
hội, quyết định đời sống tinh thần của xã hội, mà trong đó chủ yếu là đời sống
văn hóa tinh thần xã hội, không phải chỉ bằng cách trực tiếp mà thường thông
qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận, văn
hóa tinh thần nào cũng phản ảnh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ khinh tế của
thời đại, mà chỉ khi xét đến cùng thì mới thấy rõ vai trò quyết định của các
quan hệ kinh tế đối với các quan hệ văn hóa.
2 – Quá trình phát triển kinh tế là
tiền đề của quá trình phát triển văn hóa
Tất cả các yếu tố, các khâu, quá trình
và các mối quan hệ (chủ công là ở phương thức sản xuất) trong phát triển kinh tế
đều là những tiền đề, nguyên nhân sâu xa, có tính quyết định đến sự phát triển
toàn diện đời sống văn hóa tinh thần.
Từ lâu đã xuất hiện nhiều câu tổng kết:
“có thực mới vực được đạo” và rõ nhất là câu “phú quý sinh lễ, nghĩa” hay “giầu
lam sơn lắm kẻ tìm đến, khó giữa chợ chẳng có ai han”.v.v.. để phản ảnh chân lý phổ quát rất cụ thể rằng:
đời sống kinh tế của một cá nhân, của một gia đình và xã hội có phát triển phồn
thịnh, có bát ăn bát để, có giầu sang phú quý mới có đời sống văn hóa tinh thần
toàn diện, phong phú về cả lý luận và học thuyết, giáo dục (văn hóa giáo dục))
cũng như những cách thức sinh hoạt về ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp, ứng xử…đời
thường (văn hóa đời sống) và cũng trên hai lĩnh vực văn hóa đó mà phát triển một
loại hình văn hóa đặc biệt của xã hội loài người – văn hóa văn nghệ. Để làm sáng
rõ vai trò của phát triển kinh tế đối với phát triển của văn hóa có thể bằng
nhiều cách thức khác nhau: hoặc bằng cách phân tích những kết quả đạt được
trong quá trình phát triển kinh tế trên tất cả các mặt, các quá trình, các mối
quan hệ của nó. Hay bằng cách phân tích những điều kiện cần thiết mà bản thân sự
phát triển của văn hóa đòi hỏi. Bài viết này được trình bầy chủ yếu theo cách
thứ hai
Văn hóa với tính cách là nền tinh thần
của đời sống xã hội bao gồm ba nội dung cơ bản: văn hóa giáo dục, văn hóa văn
nghệ và văn hóa đời sống gắn liền với việc thực hiện những chức năng của văn
hóa như đã nói ở trên. Để văn hóa phát triển, nghĩa là đời sống văn hóa ở thời
đại sau phải phong phú hơn và cao hơn đời sống văn hóa ở thời đại trước, đòi hỏi
trước hết các bộ phận cấu thành của nó phải được phát triển đáp ứng được nhu cầu
ngày càng nâng cao đời sống tinh thần của con người và xã hội. Những nhu cầu ấy,
những đòi hỏi ấy rất đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ khó có thể thống kê
hết được. Nhưng dù đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ thế nào cũng đều được
thể hiện tập trung ở những yếu tố chung như: con người – chủ thể sáng tạo văn
hóa và hưởng thụ văn hóa; tổng thể những giá trị vật chất (văn hóa vật thể) và
những giá trị văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể) – những điều kiện không
thể thiếu của sự tồn tại và phát triền văn hóa ở mỗi thời đại; các phương thức
sử dụng những sản phẩm văn hóa của con người.v.v…
[1] .
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 3, tr. 431
[2] .
Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia…: Giáo trình Tư tưởng
Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr. 410
[3] . Hội
đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia…: Giáo trình Tư tưởng Hồ
Chí Minh, S.đ.d, tr. 410.
[4] .
Hồ Chí Minh: Toàn tập, S.đ.d, t. 10, tr. 59
[5] .
C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 34, tr. 241
[6] . C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 13, tr. 15
[7] . C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 3, tr. 39 - 40
[8] . Hồ
Chí Minh: Toàn tập, S.đ.d, t. 10, tr. 59
[9] . C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 13, tr.15.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét