Hệ thống chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy tắc, quy phạm...) đạo đức
mới- đạo đức cách mạng là bộ phận chính của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, được
Người dầy công xây dựng trên cơ sở tổng kết những tinh hoa đạo đức nhân loại,
quan trọng nhất là đạo đức Mác- Lêni, và những yêu cầu thực tiễn của thời đại ở
cả trong và ngoài nước. Hệ thống đó rất toàn diện, nhưng sâu sắc nhất là những
chuẩn mực đạo đức cơ bản.
Những chuẩn mực đạo đức cơ bản đều có tính chung nhất, phổ
biến nhất, sâu sắc nhất hợp thành hạt nhân và quy định bản chất của một nền hay
một tư tưởng đạo đức. Nó thường được biểu hiện thành những chuẩn mực đạo đức đặc
thù và cụ thể hơn cho những đối tượng, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Trong lễ bế mạc lớp bổ túc trung cấp, ngày 10 - 10 – 1947, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “ muốn có đạo đức cách mạng phải có năm điều sau đây: trí- tín-
nhân- dũng- liêm”[1]. Ở tác
phẩm Sửa đổi lối làm việc, Người cũng viết: Muốn trở nên người cách mạng chân chính,
trước hết phải có năm tính tốt: “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm”[2].
Như vậy, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ sáu chuẩn mực đạo đức chung nhất, phổ biến của đạo
đức cách mạng là nhân, nghĩa, trí, dũng và liêm. Ở tất cả những bài viết, bài nói
khác của Người về đạo đức mới, ví dụ như: Đường cách mệnh (1927), Thư gửi các bạn
thanh niên (1947), Tư cách người công an nhân dân (1948), Cần, kiệm, liêm, chính
(1949), Cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh (1951), Người cán bộ cách mạng
(1955), Đạo đức công dân (1955), Đạo đức cách mạng (1958), Nói chuyện với đồng
bào và cán bộ tỉnh Thái Bình (1967), Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân (1969), Di chúc (1969).v.v., Hồ Chí Minh đã xây dựng nhiều chuẩn
mực đạo đức khác của đạo đức mới, nhưng suy cho cùng, những chuẩn mực đạo đức này
cũng chỉ là sự biểu hiện cụ thể của sáu chuẩn mực đạo đức nêu trên. Như vậy sáu
chuẩn mực đạo đức nhân, trí, nghĩa, tín,
dũng, liêm là những chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh.
1. Nhân: "Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng
giúp đỡ đồng chí và đồng bào"[3]. Hội
ý là thương yêu con người (ái nhân) và cứu người (cứu nhân). Nhiều học thuyết
chính trị - xã hội và tôn giáo cũng nói tới ái nhân và cứu nhân, nhưng đối tượng
còn hạn hẹp, hoặc mang nặng tính chất tín ngưỡng và nhìn chung chưa triệt để. Ái
nhân và cứu nhân ở Hồ Chí Minh rất cụ thể, thiết thực, có đối tượng rất rộng lớn,
có tính khoa học, cách mạng và triệt để. Đó là tình thương yêu bao la (bác ái)
và sự cứu giúp lẫn nhau của những con người hiện thực trên tinh thần cộng sản
chủ nghĩa "mình vì mọi người, mọi người vì mình" mà trước hết là thương
yêu và cứu giúp những dân tộc, những con
người bị áp bức bóc lột, bị đoạ đầy đau khổ, tiến tới phải tiến hành cách mạng
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng toàn nhân loại. Giải phóng
toàn nhân loại thoát khỏi cảnh bị áp bức, bóc lột, xây dựng một xã hội mà mọi
người đều làm chủ, đạt tới đỉnh cao các giá trị chân- thiện- mỹ…là nội dung giải
phóng con người (cứu nhân) triệt để về mặt xã hội. Tuy nhiên đối với Hồ Chí
Minh, đó vẫn chưa phải là mục tiêu cuối cùng. Bởi vì một khi con người vẫn còn
bị các quy luật tự nhiên chi phối thì con người vẫn còn bị mất tự do. Giải phóng
triệt để con người về mặt xã hội chỉ là điều kiện tiến tới giải phóng triệt để
con người về mặt tự nhiên. Nghĩa là đưa con người từ chỗ phụ thuộc vào tự nhiên
tiến tới làm chủ tự nhiên, chinh phục được tự nhiên, trên cơ sở nhận thức được
các quy luật tự nhiên và vận dụng nó một cách sáng tạo phục vụ cho con người.
Chỉ đến khi đó con người mới "từ vương quốc tất yếu" lên "vương
quốc tự do", mới thực sự có tự do theo nghĩa chân chính của từ này -
"tự do là tất yếu được nhận thức"
và "sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người"[4].
Thực hành chữ "Bác- ái", tiến tới giải phóng triệt
để con người cả về mặt xã hội và về mặt tự nhiên là ước mơ của toàn nhân loại được
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc và cũng là nội hàm của chuẩn mực "nhân"
trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nội hàm này đã được Người khắc hoạ trong bài
thơ "Cảnh chiều hôm" ở tập "nhật ký trong tù":
“Hoa
hồng nở hao hồng lại rụng
Hoa
tàn, hoa nở cũng vô tình
Hương
hoa bay thấu vào trong ngục
Kể
với tù nhân nỗi bất bình"[5]
Để thực hiện được mục tiêu giải phóng triệt
để con người thì phải tiến hành cách mạng vô sản, không có con đường nào khác.
Hồ Chí Minh kêu gọi: "Tất cả mọi người hãy đứng lên quanh lá cờ đỏ để
chinh phục thế giới"[6].
Khi mà công cuộc "cứu nhân" ấy
mới ở điểm bắt đầu, nghĩa là còn phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và
giải phóng giai cấp do Đảng cộng sản lãnh đạo, Hồ CHí Minh đã cụ thể hoá chuẩn
mực nhân rất rõ: Nhân "là phải có lòng bác ái, yêu nước, yêu đồng bào, yêu
bộ đội của mình"[7]. Vì
thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân.
Vì thế mà sẵn lòng chịu khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì
thế mà không ham giầu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền.
Những người đã không ham, không e, không
sợ thì việc gì là việc phải họ đều làm được"[8].
2. Trí. Hội ý là sáng suốt; biết phân biệt phải, trái; đúng, sai;
tốt, xấu; chính, tà; thiện, ác…Hồ Chí Minh chỉ rõ: trí là "đầu óc trong sạch,
sáng suốt. Dễ hiểu lý luận. Dễ tìm phương hướng. Biết xem người. Biết xét việc"[9].
"Biết địch, biết mình, biết người tốt thì nâng đỡ, biết người xấu thì không
dùng, biết cái tốt của mình mà phát triển lên, biết cái xấu của mình để mà tránh"[10].
Vì vậy mà biết làm việc có lợi, tránh việc có hại cho Đảng, cho tổ quốc, cho nhân
dân; biết vì Đảng, vì tổ quốc và nhân dân mà "cân nhắc người tốt, đề phòng
người gian"[11].
Theo Hồ Chí Minh, nếu chỉ biết yêu thương
con người (ái nhân) ở tình cảm, thì dù sâu đậm, bao la đến mấy cũng không thể cứu
giúp được con người (cứu nhân). Muốn cứu giúp được con người còn cần phải có trí.
Để có trí phải tích cực rèn luyện và học tập suốt đời. "Học để làm việc
làm người
làm cán bộ
Học để phụng sự đoàn thể*
“giai cấp và nhân dân
Tổ quốc và nhân loại"[12].
3. Nghĩa: "Nghĩa là ngay thẳng, không có tư tâm,
không làm việc bậy, không có việc gì phải dấu Đảng. Ngoài lợi ích của Đảng không
có lợi ích riêng phải lo toan. Lúc Đảng giao cho việc, thì bất kỳ to nhỏ, đều
ra sức làm cẩn thận. Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải thì nói. Không sợ
người ta phê bình mình, mà phê bình người khác cũng luôn đúng đắn"[13].
Hồ Chí Minh còn luôn dạy con người sống với nhau phải có tình nghĩa, bao hàm nội
dung lòng biết đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tiên, với Đảng, với nhân dân, với những
người có công với dân với nước và với bạn bè trên thế giới đã giúp đỡ cách mạng
nước ta. Đối với tổ tiên và những người có công với dân, với nước, Hồ Chí Minh
viết rõ: "Ngày xưa các vua Hùng đã có công dựng nước, ngày nay Bác cháu ta
phải cùng nhau giữ lấy nước"[14]. Đối
với Đảng, Người nói: "Công ơn Đảng thật là to"[15],
ta phải tận trung với Đảng, tin theo Đảng. Đối với nhân dân và bạn bè quốc tế,
Người viết: Đến ngày toàn thắng đế quốc Mỹ "tôi sẽ đi khắp hai niềm Nam Bắc
để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sỹ anh hùng; thăm hỏi các cụ phụ lão, các
cháu thanh niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta… Kế theo đó tôi sẽ thay mặt nhân
dân ta đi thăm hỏi và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và bầu
bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân
dân ta"[16]. Người
luôn luôn dạy Đảng ta và nhân dân ta phải có tinh thần quốc tế vô sản trong sáng,
thuỷ chung…
4. Tín: Tín hội ý là "Nói và làm cho nhất trí"[17]:
Nói làm việc gì phải thực hiện được việc đó; hứa hẹn về cái gì thực hiện đúng
cái đó, mượn cái gì phải trả tử tế, Hỏng cái gì phải bồi thường … Đảng và Nhà nước
thực hiện đúng điều tín với nhân dân là quyết tâm thực hiện đúng, có hiệu quả
những chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của nhà nước, chấp
hành kỷ luật và thưởng phạt nghiêm minh…Không được nói một đường, làm một nẻo.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: mục đích của
tín là tin, tín là nguyên nhân, tín là kết quả. Người chỉ rõ: Tín là "nói
cái gì phải cho tin…làm thế nào cho dân tin"[18]. Thực
hành tín để giữ vững niềm tin của dân là
một nhân tố quyết định sự thành công của Đảng, của cách mạng nước ta. Đánh mất
niềm tin của dân vào Đảnh, vào chế độ là một nguy cơ thách thức sự sống còn của
Đảng, của chế độ ta. Vì vậy, Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn nêu cao tấm gương thực
hành tín để toàn thể nhân dân noi theo.
5. Dũng: "Dũng là dũng cảm, gan góc, gặp việc
phải có gan làm. Thấy khuyết điểm có gan sửa. Cực khổ khó khăn, có gan chịu đựng.
Có gan chống lại những sự vinh hoa, phú quý, không chính đáng. Nếu cần, thì có
gan hy sinh cả tính mạng cho Đảng, cho tổ quốc, không bao giờ rụt rè, nhút nhát"[19].
Trong tư tưởng của người, dũng là mạnh dạn. quả quyết, nhưng không phải làm liều,
phiêu lưu, mà phải có kế hoạch, tinh toán kỹ từng bước rồi kiên quyết thực hiện,
nguy hiểm cũng phải làm. Như vậy cái dũng của người cách mạng là cái dũng khôn
ngoan, gắn liền với trí và tín…
6. Liêm: Liêm hội ý la không tham, trong sạch.Ở Hồ
Chí Minh, "Liêm là không tham địa vị,
không tham tiền tài.Không tham sung sướng. Không tham người tâng bốc mình. Vì vậy
mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá.
Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm,
ham tiến bộ"[20]. Trong
tư tưởng Hồ Chí Minh " ham tiến bộ" không phải là tham được thăng chức,
lên chức, mà là mong muốn được phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân ngày càng nhiều hơn,
có hiệu quả và chất lượng cao hơn.
Cả cuộc đời Hồ Chí Minh là một tấm gương
vĩ đại trong giáo dục và thực hành nhân, nghĩa, trí, tín, dũng, liêm… Hồ Chí
Minh là bậc đại nhân, đại trí, đại nghĩa, đại tín, đại dũng và đại liêm trong
thời đại mới.
[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội-
1995, tập 5 tr.223
[2] Sđd, tr.251
[3] Sđd, tr.251 - 252
[4] C.Mác- PH.ăngghen,
tuyển tập, NXB Sự thật, Hà Nội-1983,tập 5, tr.569
[5] Hồ Chí Minh toàn tập,
NXB CTQG,Hà Nội-1995, tập 3, tr.402
[6] Sđd, tập 1, tr.461
[7] Sđd, tập 5, tr.224
[8] Sđd, tập 5 ,tr.252
[9] Sđd, tập 5 ,tr.252
[10] Sđd, tr.223
[11] Sđd, tr.252
[12] Sđd, tr.684
* Đoàn thể
là Đảng cộng sản Việt Nam
[13] Sđd, tr.252
[14] Hồ Chí Minh biên niên
tiểu sử, NXB CTQG, Hà Nội- 1996,tập 5,tr.533
[15] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội-
1996, tập 10, tr.5
[16] Sđd, tập 12, tr.509.
[17] Sđd, Hà Nội- 1995, tập 5, tr.223
[18] Sđd, tập 5, tr.223-224
[19] Sđd, tập 5, tr.252
[20] Sđd, tập 5, tr.252
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét