![]() |
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn |
Kế thừa những tư tưởng đề cao vị trí, vai trò của dân
trong truyền thống văn hóa phương Đông; những giá trị tốt đẹp trong nền dân chủ
chủ nô thời cổ đại Hy lạp, thời Phục hưng, trong nền dân chủ Tư sản và quan trọng
nhất là nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, mà theo V.I.Lênin thì đó là một nền dân
chủ cao hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản. Bởi vì: “ lần đầu tiên, ở đây, chế
độ dân chủ phục vụ quần chúng, phục vụ những người lao động”[1],
Hồ Chí Minh, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công (1945), lần đầu tiên, đã
xây dựng nền dân chủ kiểu mới ở Việt Nam với chính thế “ Dân chủ cộng hòa” nhằm
đảm bảo cho dân tộc “ Độc lập”, dân quyền “ Tự do” và dân sinh “ Hạnh phúc”. Với
luận điểm: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi
khó khăn”[2]
đã đưa Hồ Chí Minh lên hàng đầu những
nhà dân chủ tiên tiến nhất trên thế giới, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-
Lênin. Hạt nhân của luận điểm sáng tạo đó là Người đã phân tích rõ mối quan hệ
biện chứng của thực hành dân chủ trong Đảng với thực hành dân chủ trong quần
chúng nhân dân (mà nhiều khi Người gọi là dân chúng). Người viết và nói nhiều về
vấn đề này. Nhưng tập trung, nổi bật ở các bài: Sửa đổi lối làm việc (1947),
Cách làm việc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách (1948), Phê bình (1951), Thực
hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (1952), Thường thức
chính trị (1953), Cái “chìa khóa vạn năng” (1967)…và cuối cùng là ở Di chúc của
Người (1965 – 1969)
1-Thực hành dân chủ trong Đảng
Thực chất
của thực hành dân chủ trong Đảng là phát huy đầy đủ quyền làm chủ của mỗi cán bộ,
đảng viên, đòi hỏi họ phải huy động được đồng bộ cả đạo đức, trí tuệ và tài
năng vào quá trình xây dựng, phát triển Đảng một cách toàn diện trên các lĩnh vực
chính trị, tư tưởng và tổ chức. Chỉ có như vậy, Đảng mới có thể đề ra được đường
lối, chủ trương, chiến lược và sách lược đúng đắn, đáp ứng được yêu cầu của thực
tiễn cách mạng ở mỗi giai đoạn lịch sử. Chỉ có như vậy, Đảng mới có thể hoạch định
được đường lối, cách thức tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương,
chính sách của mình. Chỉ có như vậy, Đảng mới có thể thành công trong công tác
giám sát, kiểm tra việc thực hiện những đường lối, chủ trương, chính sách đã đề
ra. Cũng chỉ có như vây, Đảng mới có thể tổ chức tổng kết đúc rút kinh nghiệm,
cả thành công và chưa thành công, trong công tác lãnh đạo cách mạng ở giai đoạn
trước cho công tác lãnh đạo cách mạng giai đoạn sau…Quá trình đó, trên tất cả
các lĩnh vực và các mặt, đều được thực hiện bởi những cán bộ, đảng viên cụ thể
theo sự phân công, phân nhiệm của tổ chức đảng các cấp, từ Trung ương tới cơ sở.
Do đó mà ý thức tự giác, tự động và kỹ năng thực hành dân chủ của mỗi cán bộ, đảng
viên ngày càng được rèn luyện, hoàn thiện.
Hồ Chí Minh
thường xuyên quan tâm nâng cao ý thức tự giác và kỹ năng rèn luyện thực hành
dân chủ cho cán bộ, đảng viên. Người yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn học
tập và rèn luyện “ Cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”. Hồ Chí Minh chỉ rõ “ Tập thể lãnh đạo là dân
chủ”[3]
và giải thích lý do vì sao phải có tập thể lãnh đạo. Theo Người thì một người
dù khôn ngoan tài giỏi đến mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy,
chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, chứ không thể trông thấy và xem xét được tất cả mọi
mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh
nghiệm, người thì thấy rõ mặt này, người thì thấy rõ mặt khác của vấn đề đó và
“ Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ mọi
mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt, thì vấn đề ấy mới được giải quyết chu đáo, khỏi
sai lầm”[4].
“ Lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến
cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”[5].
Hồ Chí Minh đã trích câu tục ngữ “ Khôn bầy hơn khôn độc”[6]
để chứng minh cho chân lý của phương pháp làm việc tập thể lãnh đạo.
Vận dụng sáng tạo quan điểm toàn diện Mác-
Lênin vào lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng: cách làm việc tập thể
lãnh đạo còn một nội dung trọng yếu nữa là sau khi đã “ Góp kinh nghiệm và sự
xem xét của nhiều người”, nghĩa là thấy được vấn đề một cách toàn diện, thì còn
phải biết chắt lọc, từ trong tổng số những kinh nghiệm, những ý kiến đã đóng
góp của nhiều người, những kinh nghiệm tốt và những ý kiên sáng tạo đúng đắn
đáp ứng được yêu cầu của cách mạng trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ
thể. Chỉ có trên cơ sở như vậy, tập thể lãnh đạo mới có thể xác định được đường
lối, chủ trương, kế hoạch, nhiệm vụ đúng đắn “ do đa số đã quyết định”[7](
tổ chức lấy biểu quyết theo nguyên tắc thiểu số phải phục tùng đa số). Và sau
khi đã xác định được kế hoạch, nhiệm vụ cụ thể, thì tập thể lãnh đạo phải phân
công cho mỗi cá nhân phụ trách. Theo Hồ Chí Minh, nếu không có cá nhân phụ
trách, thì sẽ sinh ra cái tệ người này ủy cho người nọ, người nọ lại ủy cho người
kia, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì việc gì cũng không xong. Giống
như trường hợp “ Nhiều sãi không ai đóng cửa chùa”. Và Hồ Chí Minh chỉ rõ: “ Phụ
trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ. Kết
quả cũng là hỏng việc…Cá nhân phụ trách là tập trung”[8].
Hồ Chí Minh đòi hỏi cá nhân phụ trách, đến lượt họ, cũng phải phát huy quyền
dân chủ của chính mình và quyền dân chủ của mỗi đảng viên, cán bộ do mình phụ
trách
Hồ Chí
Minh kết luận : “ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập
trung”[9].
Đây chính là nguyên tắc cốt lõi trong công tác tổ chức, sinh hoạt đảng, phản
ánh nội dung đầy đủ của vấn đề thực hành dân chủ trong Đảng với hai mặt gắn bó
chặt chẽ với nhau, không thể tách rời nhau, làm điều kiện tiền đề cho nhau, đảm
bảo giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo cách mạng của Đảng. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên, mà trước hết là “ những cán bộ phải thực
hành cho đúng cái chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”[10].
Hồ Chí Minh rất nghiêm khắc phê phán những cá nhân đảng viên, cán bộ nào vi phạm
chế độ này,trước hết là đối với cán bộ đứng đầu. Người nêu ví dụ về những hành
vi của họ như: không đến dự mọi cuộc hội nghị, hoặc không cân nhắc suy nghĩ kỹ
lưỡng những vấn đề cần phải bàn bạc và giải quyết, hoặc không phát biểu ý kiến
của mình đối với vấn đề ấy…nhưng lại giải quyết công việc theo lối quan liêu,
chuyên quyền, độc đoán, bao biện…do rơi vào chủ nghĩa cá nhân mà mắc nhiều bệnh
trọng như: “ tham lam, kiêu nghạo, thiếu kỷ luật, óc địa phương, óc lãnh tụ, lười
biếng, cận thị…”[11].
Người chỉ rõ rằng những người đó đã làm trái với cách làm việc tập thể lãnh đạo,
cá nhân phụ trách, và do đó, họ không những không thực hành dân chủ, mà còn
“nêu gương”, tạo tiền đề, điều kiện cho cán bộ cấp dưới không thực hành dân chủ.
Và cứ như vậy gây cản trở thực hành dân chủ xuống tới đảng viên. Đó là một lối
làm việc “mất hết dân chủ trong Đảng”[12].
Người kết luận: Như thế là họ đã “làm trái với nhiệm vụ của mình, và cũng không
xứng đáng là người lãnh đạo”[13].
Từ đó, Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn “ham học, ham làm, ham tiến
bộ”; đồng thời phải nghiêm túc, thật thà, chân thành, thẳng thắn đấu tranh tự
phê bình và phê bình, nâng cao đạo đức cách mạnh, quyét sạch chủ nghĩa cá nhân,
đoàn kết chặt chẽ, và coi đây là vũ khí sắc bén để thực hành dân chủ trong Đảng
[1].
V.I.Lênin: Toàn tập, N.X.B.Tiến bộ, Matxcơva – 1978, T. 37, Tr. 74
[2] .
Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2000, T. 12, Tr. 249
[10] .
Hồ Chí Minh: Toàn tập, S,Đ,D, T. 5,Tr. 506
[11] .
Hồ Chí Minh: Toàn tập, S.Đ.D, T. 5,Tr. 255- 256
[12] .
Hồ Chí Minh: Toàn tập, S.Đ.D, T. 5, Tr. 280
[13] .
Hồ Chí Minh: Toàn tập, S.Đ.D, T. 5, Tr.505- 506
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét