Vấn đề Tiến bộ nhân loại (Tiến bộ
của nhân loại) không phải là vấn đề mới nhưng lại luôn luôn là vấn đề thời sự của
mỗi thời đại kế tiếp nhau trong lịch sử. Vấn đề này có ý nghĩa lớn trong thời đại
hiện nay nói chung và đối với nước ta nói riêng.
![]() |
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013 |
Hồ
Chí Minh đã kế thừa và vận dụng sáng tạo nhiều cách thức – phương pháp làm rõ vấn
đề tiến bộ và tiến bộ nhân loại trong lịch sử trong đó có hai phương pháp
chung, cơ bản: Một là phương pháp nghiên cứu toàn bộ đời sống văn hoá nhân loại
trong quá trình lịch sử tự nhiên mà trong đó tập trung vào công cụ sản xuất để
từ đó lan sang các mặt khác của đời sống xã hội hình thành phương pháp nghiên cứu
lịch sử qua các nền văn minh. Ưu điểm của phương pháp này là khá toàn diện
nhưng chưa làm rõ được động lực, quy luật chi phối sự tiến bộ của nhân loại qua
các nền văn minh. Ở phương pháp này người ta chỉ thấy liệt kê các sự kiện lịch
sử, các kết quả và thành tựu của văn hoá đã đạt được chứ ít quan tâm tới nguyên
nhân sâu xa bên trong của những sự biến lịch sử, chưa trả lời được một cách sâu
sắc câu hỏi: Vì sao nhân loại nói chung luôn tiến bộ? Vì sao có dân tộc tiến bộ
nhanh, có dân tộc tiến bộ chậm và lại có dân tộc hiện nay vẫn ở vào thời kỳ lịch
sử xa xưa? V.v..
Hai
là, để kế thừa những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của phương pháp
nghiên cứu các nền văn minh, chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề xuất và thực hiện
phương pháp nghiên cứu các kết cấu bên trong và quan hệ nội tại của xã hội loài
người trong lịch sử. Đó là đi từ kết cấu kinh tế cùng các quan hệ kinh tế tới kết
cấu và quan hệ chính trị, văn hoá (theo nghĩa hẹp), xã hội v.v… Các phương pháp
nghiên cứu này gọi chung là các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bằng những phương pháp khoa học và cách mạng
này, lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã
phát hiện ra vai trò quyết định của quảng đại quần chúng nhân dân và cá nhân
lãnh tụ trong lịch sử; rằng họ là những người sáng tạo ra lịch sử bằng chính những
sản phẩm của lịch sử; rằng con người tự làm ra lịch sử của mình chứ không phải
thần thánh, ma quỷ siêu nhiên; rằng quy luật số một quyết định sự tiến bộ nhân
loại, qua các nền văn minh, là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình
độ của lực lượng sản xuất; rằng khi xã hội loài người bị phân chia thành giai cấp,
do chế độ tư hữu xuất hiện, thì quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với
trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện trực tiếp thành quy luật đấu
tranh giai cấp – nhìn chung “Lịch sử của xã hội loài người là lịch sử của những
cuộc đấu tranh giai cấp” – đấu tranh giai cấp là động lực phát triển – tiến bộ
của xã hội có giai cấp, rằng sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ
tầng cũng là quy luật chung góp phần quyết định sự tiến bộ của nhân loại v.v…
Tuân theo những quy luật này trong sự vận động, phát triển của xã hội loài người
là cơ sở khoa học để chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng “lịch sử của xã hội
loài người đã dần dần tiến bộ qua các thời kỳ từ thấp đến cao: cộng sản nguyên
thuỷ è
chiếm hữu nô lệ è
phong kiến è
tư bản è
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa v.v… Như vậy, tiến bộ nhân loại thực chất
là tiến bộ của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử kế tiếp nhau từ thấp
đến cao.
Tóm
lại bằng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác – Lênin đã khái quát bản chất của tiến bộ nhân loại: Tiến bộ nhân
loại – tiến bộ xã hội là quá trình phát triển của toàn bộ đời sống xã hội qua
các giai đoạn lịch sử (các hình thái kinh tế - xã hội) kế tiếp nhau, mà giai đoạn
sau bao giờ cũng cao hơn về trình độ phát triển so với giai đoạn trước, do các
quy xã hội chi phối thông qua hoạt động của con người và các thế hệ loài người.
Chủ
nghĩa Mác – Lênin chẳng những khái quát được bản chất của tiến bộ nhân loại mà
từ đó còn chỉ rõ những tiêu chuẩn cơ bản của tiến bộ nhân loại. Đó là:
1.
Tiến bộ nhân loại là tiến bộ của toàn bộ đời sống xã hội loài người như một hệ
thống toàn vẹn và hoàn chỉnh, phát triển từ thấp đến cao. Toàn bộ đời sống xã hội
là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều hệ thống con như gia đình, nhà nước,
khoa học, nghệ thuật v.v… Các hệ thống con thường phát triển không đều. Nếu chỉ
căn cứ vào một hệ thống con nào đó để xem xét thì không thể kết luận được là xã
hội đó tiến bộ hay suy thoái. Vì vậy cần phải xem xét sự tiến bộ của tất cả các
hệ thống con, nghĩa là phải xem xét sự tiến triển của tất cả các hệ thống con,
nghĩa là phải xem xét xã hội trong tính toàn vẹn của nó trên tất cả các mặt
kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… sao cho mang lại những giá
trị vật chất và tinh thần cho sự phát triển toàn diện con người ngày một tốt
hơn, cao hơn. Với phương pháp luận như vậy thì tiêu chuẩn chung nhất để xem xét
sự tiến bộ xã hội chỉ có thể là phương thức sản xuất. Bởi vì phương thức sản xuất
là yếu tố quyết định sự vận động và phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Theo
đó thì quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản số một trong sự phát triển của xã hội loài
người từ thấp đến cao.
2.
Theo C.Mác: “Không nên hiểu khái niệm tiến bộ xã hội với một sự trìu tượng hoá
tầm thường”, mà phải hiểu tiến bộ xã hội trong quá trình “phát triển sự phong
phú của bản tính con người với tư cách là mục đích tự thân”[1]. Theo đó thì tiêu chuẩn tiếp
theo của tiến bộ nhân loại là ở mức độ giải phóng và phát huy được sức mạnh và
năng lực sáng tạo của con người. Nghĩa là xã hội nào thực hiện được yêu cầu đó
tốt hơn thì được coi là tiến bộ hơn.
Tiêu
chuẩn có tính mục đích cụ thể này được phản ánh ở các thành tựu của tăng trưởng
kinh tế, của phát triển khoa học – kỹ thuật (công nghệ cao hay thấp, tiên tiến
hay lạc hậu), của các nguyên tắc quản lý, của trạng thái chính trị - xã hội, mức
độ phát huy dân chủ, ở trình độ học vấn, ở điều kiện đảm bảo sức khoẻ, ở ý thức
đạo đức lối sống, ở kỷ luật lao động, tôn trọng pháp luật và thế giới quan v.v…
Trên
cơ sở vận dụng phương pháp nghiên cứu duy vật lịch sử và những quan điểm của chủ
nghĩa Mác – Lênin về tiến bộ nhân loại (tiến bộ xã hội) một cách sáng tạo cho
phù hợp với điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh đã đề xuất hệ
thống những quan điểm về tiến bộ và tiến bộ nhân loại một cách cụ thể và sâu sắc:
Trước
hết, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tiến bộ được xem là một sự phát triển,
không có phát triển thì không có tiến bộ. Ở bài “vấn đề dân bản xứ”, đăng trên
báo L.Humanité ngày 2 – 8 – 1919, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Xét về nguyên tắc, tiến
bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển”[2]. Vấn đề là phát triển như
thế nào? Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một cách rất cụ thể, dễ hiểu, dễ làm. Người viết
ở “Mục đọc sách” (Tài liệu chữ hán trong bản thảo “Nhật ký trong tù”): “Một vật
dùng như hai vật. Một người làm việc của hai người. Một ngày làm việc của hai
ngày. Nói ít, bắt đầu bằng hành động. Tiến bộ”[3]. Như vậy, tiến bộ ở đây là
tăng năng suất lao động. Hay ở “Bài nói tại Hội nghị mở rộng của tỉnh uỷ Hà
Đông” ngày 22 – 12 – 1959, Người nói: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thu
hoạch phải ngày càng tăng”[4], nghĩa là kết quả trong
lao động sản xuất ngày sau phải cao hơn ngày trước, năm sau phải cao hơn năm
trước…
Tiến
bộ được Hồ Chí Minh đề cập rất toàn diện: có con người, cán bộ, đảng viên, chiến
sĩ… tiến bộ, có tập thể, cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, hợp tác xã, cộng đồng, dân
tộc, đất nước, chế độ tiến bộ; có sửa đổi lối làm việc, sửa đổi cách lãnh đạo…
sao cho có kết quả cao – tiến bộ; có con đường, xu hướng, phương pháp, tư tưởng,
đạo đức, lối sống… tiến bộ; có vũ khí, công cụ, máy móc… tiến bộ; có thi đua, sửa
chữa khuyết điểm, đoàn kết… tiến bộ; có học tập, bài viết, công trình, bản nhạc,
bài hát… tiến bộ v.v… Tất cả các mặt, các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có
phát triển theo thời gian hoặc là tăng năng suất lao động, hoặc là ngày này,
tháng này, năm này… phải có kết quả cao hơn ngày trước, tháng trước, năm trước…
đều được coi là có tiến bộ trong công tác cách mạng cũng như trong sinh hoạt đời
thường.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét