Thứ Ba, 11 tháng 4, 2017

TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Trí thức là hiểu biết”. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản - Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội - Khoa học xã hội do đó mà ra. Tập hợp những người có trí thức, hoặc là toàn diện, hoặc là về một mặt nào đó một cách sâu sắc và phong phú của hai sự hiểu biết nói trên, được đề cao từ đủ các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, gọi là tầng lớp trí thức - những người chuyên lao động trí óc. Hồ Chí Minh ít nói về trí trức trừu tượng, chung chung. Khi nói về trí thức, bao giờ Người cũng gắn trí thức với những con người cụ thể - người trí thức - tầng lớp trí thức - đội ngũ trí thức, tức là những người hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, vận dụng đưa khoa học vào cuộc sống.     
          Trên cơ sở tổng kết những giá trị tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại và quan trọng nhất là của chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức, Hồ Chí Minh đã xây dựng những quan điểm cơ bản của Người về trí thức, góp phần đào tạo đội ngũ trí thức ngày càng đông đảo cho cách mạng nước nhà. Theo quan điểm của Người, trí thức được biểu hiện trên một số nội dung cơ bản sau:
          Trước tiên, trí thức là một lực lượng quan trọng trong lực lượng cách mạng.
          Hồ Chí Minh khẳng định: Trí thức là một bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng. Không có trí thức, cùng với công nông đấu tranh cách mạng, thì cách mạng không thể thành công được. Người chỉ rõ: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”[1]. Để “dân tộc ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng của một nước Việt Nam độc lập”[2], thì đòi hỏi người dân Việt Nam phải có trí thức, phải được học tập trên một nền giáo dục mới và Người coi đó là nhiệm vụ chiến lược vừa cấp bách, vừa lâu dài.
          Để bồi bổ thêm cho lực lượng cách mạng, Hồ Chí Minh đã có những sách lược tài tình để đoàn kết và sử dụng đến mức cao nhất năng lực của tầng lớp trí thức có tư tưởng tiến bộ, có tâm huyết với dân, với nước. Trong thời kì 1945 - 1946, ở Sài Gòn - Chợ lớn, có hơn 7000 trí thức và thương gia đã ký giấy đòi chính phủ Pháp đàm phán với chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đội ngũ trí thức tham gia ngày càng đông và góp phần to lớn đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi như: cụ Bùi Bằng Đoàn, khâm sai đại thần Phan Kế Toại... (quan lại cũ); Phạm Bá Trực, Cao Triệu Phát, Nguyễn Mạnh Hà... (chức sắc Thiên chúa giáo); Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Vũ Đình Hòe, Cù Huy Cận, Hoàng Minh Giám... (trí thức cũ tiêu biểu); Trần Đại Nghĩa, Lương Đình Của, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Tùng... (nhà khoa học); Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi... (văn nghệ sĩ)...
          Hai là, trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc
          Hồ Chí Minh khẳng định: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác cũng thế, ở Việt Nam càng thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã góp một phần quan trọng. Một số trí thức trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai sát cánh với bộ đội và nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài”[3]. Người chỉ rõ: Kháng chiến, kiến quốc cũng như sau này xây dựng chủ nghĩa xã hội cần phải có trí thức trong mọi ngành: phát triển kinh tế cần có những người chuyên môn về nông nghiệp, công nghiệp; phát triển giao thông vận tải cần có những kỹ sư thông thạo về đắp đường, bắc cầu, sửa chữa và sản xuất các phương tiện giao thông; giữ gìn sức khỏe cho dân cần có thầy thuốc, dược sĩ; đào tạo cán bộ cho mọi ngành hoạt động cần có thầy, cô giáo; công tác văn hóa - xã hội cần có các chiến sĩ trên các lĩnh vực văn học - nghệ thuật… Do đó, lao động trí óc có nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng nước nhà. Hồ Chí Minh kết luận: “Một phần tương lai của dân tộc nước nhà nằm trong sự cố gắng của anh chị em[4]
          Ba là, người trí thức cần tu dưỡng, học tập thường xuyên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng.
          Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này có hai lý do quan trọng: Một là cũng như mọi người khác, người trí thức cũng có Thiện và Ác ở trong lòng tùy theo điều kiện mà hình thành và phát huy tác dụng – tức là khi cái Ác nảy sinh thì cũng phạm nhiều khuyết điểm. Hai là yêu cầu người trí thức phải thường xuyên nắm bắt được những trí thức mới do chính những nhà trí thức và những người khác sáng tạo ra do yêu cầu ngày càng văn minh của xã hội loài người.
          Khuyết điểm của giới trí thức được Hồ Chí Minh chỉ rõ tập trung ở lễ khai mạc chỉnh huấn Đảng, dân, chính các cơ quan Trung ương, ngày 6-2- 1953. Những khuyết điểm đó đều từ cá nhân chủ nghĩa mà ra. Hồ Chí Minh viết: “Trí thức ta có khuyết điểm nhiều chứ không phải là ít. Khuyết điểm là do nền giáo dục nhồi sọ, chia rẽ, nô lệ của đế quốc phong kiến.
          Theo Hồ Chí Minh, những khuyết điểm ấy cản trở người trí thức cống hiến tài trí cho cách mạng. Vì vậy Người yêu cầu tầng lớp trí thức phải học tập và cải tạo để tiến bộ. Người nhắc nhở: “… cần nhận rõ việc cải tạo đây là phải tự nguyện, tự giác. Mình muốn giúp đỡ kháng chiến, kiến quốc thì phải tự nguyện cải tạo. Đồng thời, phải biết việc cải tạo không dễ đâu. Đó là một cuộc cách mạng “trồng người”, nó lâu dài và gian khổ. Ai không hiểu như thế là sai lầm”[5].
          Về học tập những trí thức mới, Hồ Chí Minh phân tích: “Trí thức không bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi”[6], nhất là những trí thức mới trên tất cả các lĩnh vực khoa học. Đó là những cái mới, cái tiến bộ đưa xã hội phát triển ngày càng hiện đại, văn minh. Nó đòi hỏi người trí thức phải có vốn trí thức nhất định, nhưng phải có tri thức thật sâu rộng thuộc về chuyên môn của mình, để vận dụng và tuyên truyền vào đời sống xã hội. Muốn như vậy, người trí thức phải cố gắng học tập thường xuyên để nâng cao và mở rộng tầm hiểu biết của mình. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn trí thức phải thực hành khẩu hiệu của Lênin: “Học, học nữa, học mãi” để tiến bộ, tiến bộ thêm nữa, tiến bộ mãi.
          Thứ tư, phải ra sức xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức cách mạng.
Đây là Quốc sách, chiến lược lâu dài, trên cơ sở kết hợp cải tạo trí thức cũ với xây dựng trí thức mới.
          Hồ Chí Minh phân tích rõ rằng, cách mạng nước ta thành công, một phần quan trọng là cách mạng đã cải tạo được đông đảo tầng lớp trí thức cũ tin tưởng và đi theo và phục vụ tốt cho cách mạng. Theo Người, trí thức cũ về chuyên môn là khá, song vì bị giáo dục trong môi trường thực dân, phong kiến nên tư tưởng và lề lối làm việc không khỏi ảnh hưởng của phong kiến, thực dân. Trước cách mạng, họ quan niệm học để sau này ra làm quan, phát tài, “ăn trên, ngồi trốc”, khỏi phải lao động chân tay mệt nhọc, chân lấm tay bùn và “vinh thân phì gia”… Vì vậy, đội ngũ trí thức cũ còn phạm rất nhiều khuyết điểm. Do đó, cách mạng, Đảng, Chính phủ, nhân dân nhất thiết phải cải tạo họ cả về chính trị, tư tưởng, lề lối làm việc và bồi dưỡng chuyên môn.
          Mục đích cải tạo là làm cho họ trở thành những trí thức mới, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Đây là một cuộc đấu tranh cách mạng, đòi hỏi người trí thức phải có quyết tâm cao, lập trường kiên điện và tu dưỡng liên tục, lâu dài, gian khổ.
          Thứ năm, phải khai thác và sử dụng trí thức một cách hợp tình, hợp lý, mang lại hiệu quả cao cho cách mạng.
          Hồ Chí Minh coi đây là một công tác thường xuyên, liên tục và lâu dài. Bởi vì không sử dụng đúng đắn đội ngũ trí thức sẽ là một lãng phí rất to lớn, làm tổn hại tới sức mạnh của dân tộc, của cách mạng. Hồ Chí Minh cho rằng: mỗi người đều có Thiện và Ác ở trong lòng, nhưng phần Thiện nhất định sẽ chiến thắng, nó ngày càng nẩy nở như hoa mùa xuân, còn phần Ác nhất định sẽ bị đánh bại, nó ngày càng mất đi, nếu biết khơi dậy, tin tưởng phần thiện ở mỗi người trí thức… Bên cạnh đó phải biết yêu thương, trân trọng trí thức, trên cơ sở hướng trí thức tới cái Chân, Thiện, Mỹ và có lòng khoan dung độ lượng…Phải biết trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá khách quan về đức và tài của trí thức, tránh tuyệt đối hóa mặt này, coi nhẹ mặt kia để sử dụng hợp lý trí thức.
         
Tài liệu tham khảo
1.     Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 2011, tập 4
2.     Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 2011, tập 4
3.     Hồ Chí Minh: Về đạo đức, Nxb CTQG Hà Nội 2001



[1] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 2011, tập 4, tr 7
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG, Hà Nội - 2011, tập 4, tr 7
[3] Hồ Chí Minh: Về đạo đức, Nxb CTQG, Hà Nội - 1993, tr 157
[4] "anh chị em" là trí thức (TG)
[5] Hồ Chí Minh: Về đạo đức, Nxb CTQG, Sđd, tr 161
[6] Hồ Chí Minh: Về đạo đức, Nxb CTQG, Sđd, tr 161

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...