Nguyện hiến
dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến năm
1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa hoạt
động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất
cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà
báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1].
Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước
hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi
con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là
mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được
tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”[2].
![]() |
Tượng đài Bác Hồ vói các dân tộc |
Tình thương yêu con người và hết lòng
chăm lo cho hạnh phúc của con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa bao la, vừa sâu
sắc, cụ thể thiết thực. Người không chỉ chăm lo cho hạnh phúc chung cho toàn
dân tộc Việt Nam, mà còn chăm lo hạnh phúc cho mỗi con người cụ thể ( “Sữa để
em thơ, lụa tặng già…”) không phân biệt dâj tộc (tộc người: Kinh, Mường, Mán,
Thái, Mèo, Tày, Nùng, ÊĐê, BaNa, XêĐăng…), tôn giáo, tầng lớp, nghề nghiệp,
đảng phái, giới tính, tuổi tác, vùng miền…Trong đó, trên tinh thần đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và công bằng cho
các dân tộc và mỗi con người về nghĩa vụ và quyền lợi phù hợp với điều kiện
lịch sử cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm sâu sắc cho đồng
bào ở các tỉnh xa sôi, hẻo lánh, vùng núi cao, biên giới, hải đảo – những nơi,
so với những tỉnh khác, điều kịên cho sự xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội
gặp rất nhiều khó khăn mà không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Một
trong số các tỉnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, động viên và
chăm sóc đặc biệt là tỉnh Lai Châu[3]
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành
công, Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể quốc dân đồng bào
trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh Nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà. Chính phủ lâm thời do Người làm Chủ tịch đã phải lập tức đương đầu
giải quyết cùng một lúc hàng trăm công, nghìn việc để chống giặc lụt, giặc đói,
giặc dốt, nhưng nghiêm trọng nhất là chống giặc ngoại xâm trước nguy cơ đế quốc
Pháp, được đế quốc Anh và Mỹ đồng tình, trở lại xâm lược nước ta và mưu đồ “
diệt Cộng, cầm Hồ” của quân đội Tưởng Giới THạch khi tiến vào nước ta làm nhiệm
vụ tước vũ khí quân Nhật ở miền Bắc. Những yêu sách và hành động trắng trợn,
ngang ngược của quân đội Pháp và Tưởng đã đặt nền độc lập của nước ta ở thế
“ngàn cân treo sợi tóc”. Ngay ở vào hoàn cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn
không quyên đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào Lai Châu. Vào
đầu tháng 12/1945, Người đã chỉ đạo tổ chức Đại hội lần thứ ngất các dân tộc
thiểu số và Người còn viết thư gửi đồng bào các dân tộc thiểu số.Thư được viết
bằng cả niềm vui sướng của Người và còn được nhân lên khi hòa quyện vào niềm
vui sướng chung của đồng bào dân tộc ở địa vị là dân của một nước độc lập, tự
do, thoát khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân, phong kiến.Thư là cả tình
cảm yêu thương, quan tâm thiết thực của Người đối với đồng bào bằng những lời khuyên nhủ về thực
hiện đoàn kết, tích cực tăng gia sản xuất, giúp đỡ Chính phủ và khẳng định
chính sách của Chính phủ về quyền bình đẳng dân tộc, ai cũng có đất cày, ai
cũng được học hành[4]
Từ ngày 19/12/1946, cả dân tộc ta bước
vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tập trung toàn bộ thời gian, tâm sức lãnh đạo Đảng, Chính phủ, lãnh đạo
toàn dân tộc dốc sức người, sức của cho cuộc kháng chiến thần thánh và kiến
quốc, giành nhiều thắng lợi toàn diện, liên tiếp ngày càng to lớn. Đến cuối năm
1953, với sức mạnh vô địch của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, quân đội
và nhân dân ta đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn trên cả nước, đồng bào ở khu
giải phóng được hưởng mọi quyền lợi của người dân một nước độc lập, tự do, được
đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, thể hiện được quyền làm chủ của
mình. Trong thời gian này, Lai Châu vẫn nằm trong khu vực bị địch tạm chiếm,
đồng bào Lai Châu vẫn chưa được giải phóng, vẫn phải chịu sống kiếp nô lệ lầm
than cho bọn thực dân, phong kiến. Tuy công việc lãnh đạo công cuộc vừa kháng
chiến, vừa kiến quốc đã chiếm hầu hết thời gian của Người, nhưng Chủ tịch Hồ
Chí Minh vẫn không quyên, vẫn lo lắng đến đồng bào ở các vùng bị địch tạm
chiếm, trong đó có cả đồng bào Lai Châu. Vào những ngày đầu năm mới, những ngày
kỷ niệm lớn của dân tộc hoặc để động viên tinh thần quân dân tham gia những
chiến dịch lớn.v.v…Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư khen ngợi, động viên đến
đồng bào và chiến sĩ cả nước, trong đó có đồng bào Lai Châu. Sự quan tâm, lo lắng, động viên của Người
đến đồng bào Lai Châu thường được thể hiện ở những bức thư Người viết gửi chung
cho bộ đội, đồng bào Tây Bắc như: Thư gửi các chiến sĩ dân công ở mặt trận Tây
Bắc (1/10/1952), Thư gửi bộ đội và dân công ở mặt trận Tây Bắc (25/12/1952)…
Những bức thư này đến được với bộ đội và dân công ở mặt trận Tây Bắc có sức
mạnh to lớn, động viên kip thời đồng bào Tây Bắc phát huy nguồn hậu cần tại chỗ
phục vụ cho chiến dịch, trước hết là lực lượng thanh niên nam nữ các dân tộc
Tây Bắc, các dân tộc Lai Châu; thể hiên niềm tin tưởng của Người vào lòng yêu
nước nồng nàn của đồng bào Tây Bắc nói chung, của đồng bào Lai Châu nói riêng.
Trên đà thắng lợi của cuộc tiến công
chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954, ngày 20/11/1953, bộ đội chủ lực ta, được sự
giúp đỡ của đồng bào Lai Châu, đã giải phóng gần như toàn bộ Lai Châu ( trừ
Điện Biên Phủ)[5].
Tin vui đến với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tấm lòng luôn quan tâm, lo lắng đến
đồng bào Lai Châu như với đồng bào miền Nam, Người đã viết thư gửi ngay cho
đồng bào và cán bộ Lai Châu vào ngày 12/12/1953. Thư tuy ngắn gọn, nhưng lời ít
ý nhiều, chứa chan tấm lòng trời biển của người cha già dân tộc đối với đồng
bào và cán bộ Lai Châu:
Ngay
đầu thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tình cảm đằm thắm, luôn quan tâm,
lo lắng, thương cảm, mong chờ đối với đồng bào Lai Châu – đồng bào Lai Châu
luôn trong trái tim của Người và Người đã viết vơi nhịp đập của trái tim mình:
“ Đã hơn 80 năm nay, đồng bào
tỉnh nhà bị thực dân Pháp và Việt gian phản động áp bức, bóc lột, lừa bịp; chưa
hề được hưởng hạnh phúc, độc lập, tự do như đồng bào các nơi khác. Tôi và Chính
phủ luôn luôn thương xót đồng bào”[6].
Trên thực tế, cuộc tổng khởi nghĩa trong cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành
thắng lợi trên cả nước, nhưng một số thị xã đã bị quân đội Tưởng Giới Thạch và
tay sai chiếm đóng từ trước[7]
như: Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên. Khi quân Tưởng buộc phải
rút về nước, chúng đã nhượng cho thực dân Pháp cùng bề lũ tay sai của Pháp tiếp
tục thống trị, áp bức, bóc lột đồng bào Lai Châu. Vây là, đồng bào Lai Châu, từ
năm 1858 đến cuối năm 1953, vẫn phải sống kiếp nô lệ, lầm than. Chủ tịch Hồ Chí
Minh thương sót đồng bào Lai Châu, tính đến từng ngày trong suốt hơn 80 năm, “ chưa
hề được hưởng hạnh phúc, độc lập, tự do như đồng bào các nơi khác”. Người đã
nói: Một ngày mà tổ quốc chưa được độc lập, nhân dân chưa được tự do là một
ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên…Đặc biệt là đối với đồng bào Nam Bộ và
đồng bào Lai Châu.
Bậc đại nhân là những người đău khổ trước
những đău khổ của người khác, vui sướng trước vui sướng của người khác. Khi
tiếp và trả lời phỏng vấn phóng viên báo Granma (CuBa ), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói:
“Mỗi người, mội gia đình đều có nỗi đău khổ riêng và gộp cả những nỗi đău khổ
riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đău khổ của tôi”[8].
Trước cuối năm 1953, Người đău khổ, thương sót đồng bào Lai Châu bao nhiêu, thì
khi nhận tin Lai Châu được giải phóng, Người vui sướng bấy nhiêu và viết thư
thăm hỏi ân cần: “Ngày nay đồng bào đã được bộ đội Chính phủ giải phóng khỏi
ách thực dân và phản động; tôi thay mặt Chính phủ thân ái gửi lời hỏi thăm đồng
bào và cán bộ”[9]
Tình thương yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đối với đồng bào và cán bộ Lai Châu không chỉ dừng lại ở đó, Người còn động
viên và căn dặn ân cần vì công cuộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc vẫn còn tiếp
diễn. Người viết tiếp: “Sau đây tôi có mấy lời dặn đồng bào và cán bộ ghi nhớ
và làm cho đúng:
1- Đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau.
2- Giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ
gìn trật tự.
3- Ra sức tăng gia sản xuất để mọi người
được ấm no.
4- Hết sức trung thành với Tổ
quốc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Còn đối với những người trước đây
đã lầm đường theo giặc nếu trở về với Tổ quốc thì Chính phủ sẽ khoan hồng.”[10].
Những lời động viên, căn dặn ân cần ấy đã xác lập địa vị và nghĩa vụ làm chủ
của đồng bào, cán bộ Lai Châu trong công cuộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc do
Đảng ta lãnh đạo, đồng thời cũng thể hiện rõ đức độ khoan hồng của Người, của
Đảng, Chính phủ và của toàn thể đồng bào Lai Châu đối với những người đã lầm
đường theo giặc nếu trở về với tổ quốc, với đồng bào…
Trong thư, khi xác định địa vị
và nghĩa vụ làm chủ nước nhà của đồng bào Lai Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ đội ngũ cán bộ Lai Châu là “công bộc” của dân và nhắc nhở: “Cán
bộ thì phải thật sự gần gũi giúp đỡ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên
hết”[11]-
bất cứ việc gì có lợi cho dân thì ta phải làm, bất cứ việc gì có hại cho dân
thì ta phải tránh. Đó là những yêu cầu cốt tử của người cán bộ tốt mà Người đã
dầy công tổng kết thành quy luật: Có cán bộ tốt việc gì cũng xong.
Cuối cùng Chủ Tịch Hồ Chí Minh chúc đồng bào và cán bộ mạnh khỏe và cố
gắng.
Đây là bức thư mà Người dành riêng cho
đồng bào và cán bộ Lai Châu. Thư không chỉ thể hiện tình cảm đằm thắm và mong
muốn thiết thực của Người đối với đồng
bào, cán bộ Lai Châu, mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiến đối với cách mạng
nước ta. Trong thư, Người đã tổng kết nhiều quy luật của cách mạng giải phóng
dân tộc và xây dựng, kiến thiết đất nước như: chiến tranh nhân dân, quyến và nghĩa vụ làm
chủ của nhân dân, quyền bình đẳng và công bằng của các dân tộc, đại đoàn kết,
những phẩm chất của đội ngũ cán bộ - công chức, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc…
Trong đó nhiều vấn đề lý luận cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Ngay
său chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng, ngày 8/5/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc
mà đồng bào Lai Châu là lực lượng tại chỗ. Người viết: “ Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính
phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong
và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang… Bác và
Chính phủ sẽ khen thưởng những cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung
phong và đồng bào địa phương có công trạng đặc biệt”[12].
Đồng bào và cán bộ Lai Châu đã
tích cực làm theo lời Người, đóng góp nhiều trí tuệ, công sức, tiền của cho
chiến dịch Điện Biển Phủ và có vinh dự lớn góp phần “làm cho tiếng tăm dân tộc Việt
Nam
ta lừng lẫy khắp năm châu”[13]
Từ khi Khu tự trị Thái – Mèo được thành
lập (7/5/1955)*, đến trước khi Người qua đời, Người vẫn luôn quan tâm, giành
tình cảm thắm thiết cho đồng bào và cán bộ Lai Châu, được thể hiện trong những
bức thư Người viết gửi chung cho đồng bào, cán bộ Khu tự trị Thái – Mèo và cho
riêng tỉnh Lai Châu. Tiêu biểu là
: Thư gửi
đồng bào Khu tự trị Thái – Mèo (7/5/1955), Thư gửi Khu tự trị Thái – Mèo (7/5/1956), Thư gửi
Đồng bào, bộ đội và cán bộ Tây Bắc (24/3/1958), Thư gửi đồng bào, bộ đội, cán
bộ Châu Điện Biên (7/5/1959)…
Trong các bức thư đó, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói rõ: Khu tự trị Thái - Mèo của chúng ta ngày nay là dân chủ, do nhân
dân làm chủ. Nó khác hẳn với “xứ Thái tự trị” giả hiệu của địch mà mục đích là
để chia rẽ và áp bức các dân tộc. Ngày nay, Đảng và Chính phủ thành lập Khu tự
trị Thái - Mèo là nhằm mục đích làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lý
lấy mọi công việc của mình, để mau chóng phát triển kinh tế và văn hóa của
mình, để thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt. Nhưng Người khẳng định: Khu tự trị Thái - Mèo
là một bộ phận khăng khít trong đại gia đình Việt Nam , cùng với các dân tộc anh em
khác đoàn kết thành một khối như ruột thịt. Nó sẽ luôn luôn được sự giáo dục và
lãnh đạo của Đảng và của Chính phủ và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em khác.
Người cũng động viên và nhắc nhở: Đồng bào Tây Bắc có cái vinh dự đặc biệt là thành lập khu tự trị đầu tiên. Vì vậy, đồng
bào Tây Bắc cũng có cái nhiệm vụ đặc biệt: là phải cố gắng làm gương mẫu cho
những khu tự trị khác sẽ dần dần thành lập sau này. Để thực hiện được những yêu
cầu ấy thì vấn đề cán bộ có tầm quan trọng to lớn. Vì vậy, Người nhắc nhở: Trong đội ngũ cán bộ thì có cán bộ cũ và cán bộ
mới, cán bộ địa phương và cán bộ từ nơi khác (miền xuôi, miền ngược) đến làm
việc, cán bộ quân sự và cán bộ Đảng, Chính quyền, có nam có nữ, có gìa có trẻ…nên
cần phải thật thà đoàn kết, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Phải kiên quyết
chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, địa phương chủ nghĩa, công
thần, tự cao tự đại…
[1].
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000, Tập 4, Tr. 161
[2] .Hồ Chí
Minh toàn tập, S.Đ.D, Tập 4, Tr. 152
[3]
. Xa xưa, Lai Châu là một châu thuộc phủ Điện biên, lộ Hưng Hóa. Thời thuộc
Pháp, tỉnh Lai Châu được thành lập theo Nghị định ngày 28/6/1909 của Toàn quyền
Đông Dương, đặt dưới sự cai trị tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp vầ tay
sai phong kiến cho đến cuối năm 1953. Thời kỳ 1953 – 1955, khi chính quyền cách
mạng tiếp quản, Lai Châu thuộc Khu Tây
Bắc. Ngày 29/4/1955, tỉnh Lai Châu giải thể và được sáp nhập vào Khu tự trị
Thái mèo. Ngày 27/10/1962, Khu tự trị Thái Mèo đổi tên thành Khu tự trị Tây Bắc
đồng thời tái lập tỉnh Lai Châu gồm 7 huyện:
Mường Tè, Mường Lay, Sình Hồ (nay
là Sìn Hồ), Điện Biên, Quỳnh Nhai, Tuần
Giáo, Tủa Chùa. Tháng 11/2003, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Lai Châu
thành tỉnh Lai Châu mới và tỉnh Điện Biên. Tỉnh Lai Châu hiện nay gồm
Thị xã Lai Châu và 6 huyện: Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường, Than
Uyên và Tân Uyên ( tách ra từ huyện
Than Uyên)
[4] .Hồ Chí
Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hầ Nội, 2011, Tập 4, Tr. 155 - 156
[5] . Trần
Bá Đệ: Lịch sử Việt Nam
từ 1858 đến nay, Nxb.Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, Tr. 290
[6]
. Hồ Chí Minh: T oàn tập, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2011, Tập 8, Tr. 367
[7] . Trần
Bá Đệ: Lịch sử Việt Nam
từ năm 1958 đến nay, S đd, Tr.209
[8] . Hồ Chí
Minh biên niên tiểu sử, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2000, Tập 10, Tr. 373
[9] . Hồ Chí
Minh: Toàn tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 367
[10] . Hồ
Chí Minh: Toàn Tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 367
[11] . Hồ
Chí Minh: Toàn tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 367
[12] . Hồ
Chí Minh: Toàn Tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 467
* Theo Sắc lệnh số230 – SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
ngày 29/4/1955, ban hành bản quy định về việc thành lập Khu tự trị Thái – Mèo.
[13] .Hồ Chí
Minh: Toàn tập,S.đ.d, Tập 11, Tr. 397
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét