Thứ Ba, 16 tháng 5, 2017

LAI CHÂU LUÔN TRONG TIM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


Nguyện hiến dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến năm 1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa hoạt động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1]. Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[2].
Tượng đài Bác Hồ vói các dân tộc
        Tình thương yêu con người và hết lòng chăm lo cho hạnh phúc của con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa bao la, vừa sâu sắc, cụ thể thiết thực. Người không chỉ chăm lo cho hạnh phúc chung cho toàn dân tộc Việt Nam, mà còn chăm lo hạnh phúc cho mỗi con người cụ thể ( “Sữa để em thơ, lụa tặng già…”) không phân biệt dâj tộc (tộc người: Kinh, Mường, Mán, Thái, Mèo, Tày, Nùng, ÊĐê, BaNa, XêĐăng…), tôn giáo, tầng lớp, nghề nghiệp, đảng phái, giới tính, tuổi tác, vùng miền…Trong đó, trên tinh thần  đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và công bằng cho các dân tộc và mỗi con người về nghĩa vụ và quyền lợi phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm sâu sắc cho đồng bào ở các tỉnh xa sôi, hẻo lánh, vùng núi cao, biên giới, hải đảo – những nơi, so với những tỉnh khác, điều kịên cho sự xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội gặp rất nhiều khó khăn mà không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Một trong số các tỉnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, động viên và chăm sóc đặc biệt là tỉnh Lai Châu[3]

         Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt toàn thể quốc dân đồng bào trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời do Người làm Chủ tịch đã phải lập tức đương đầu giải quyết cùng một lúc hàng trăm công, nghìn việc để chống giặc lụt, giặc đói, giặc dốt, nhưng nghiêm trọng nhất là chống giặc ngoại xâm trước nguy cơ đế quốc Pháp, được đế quốc Anh và Mỹ đồng tình, trở lại xâm lược nước ta và mưu đồ “ diệt Cộng, cầm Hồ” của quân đội Tưởng Giới THạch khi tiến vào nước ta làm nhiệm vụ tước vũ khí quân Nhật ở miền Bắc. Những yêu sách và hành động trắng trợn, ngang ngược của quân đội Pháp và Tưởng đã đặt nền độc lập của nước ta ở thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Ngay ở vào hoàn cảnh ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không quyên đồng bào các dân tộc thiểu số, trong đó có đồng bào Lai Châu. Vào đầu tháng 12/1945, Người đã chỉ đạo tổ chức Đại hội lần thứ ngất các dân tộc thiểu số và Người còn viết thư gửi đồng bào các dân tộc thiểu số.Thư được viết bằng cả niềm vui sướng của Người và còn được nhân lên khi hòa quyện vào niềm vui sướng chung của đồng bào dân tộc ở địa vị là dân của một nước độc lập, tự do, thoát khỏi ách thống trị, bóc lột của thực dân, phong kiến.Thư là cả tình cảm yêu thương, quan tâm thiết thực của Người đối với  đồng bào bằng những lời khuyên nhủ về thực hiện đoàn kết, tích cực tăng gia sản xuất, giúp đỡ Chính phủ và khẳng định chính sách của Chính phủ về quyền bình đẳng dân tộc, ai cũng có đất cày, ai cũng được học hành[4]
         Từ ngày 19/12/1946, cả dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung toàn bộ thời gian, tâm sức lãnh đạo Đảng, Chính phủ, lãnh đạo toàn dân tộc dốc sức người, sức của cho cuộc kháng chiến thần thánh và kiến quốc, giành nhiều thắng lợi toàn diện, liên tiếp ngày càng to lớn. Đến cuối năm 1953, với sức mạnh vô địch của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, quân đội và nhân dân ta đã giải phóng nhiều vùng rộng lớn trên cả nước, đồng bào ở khu giải phóng được hưởng mọi quyền lợi của người dân một nước độc lập, tự do, được đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến, thể hiện được quyền làm chủ của mình. Trong thời gian này, Lai Châu vẫn nằm trong khu vực bị địch tạm chiếm, đồng bào Lai Châu vẫn chưa được giải phóng, vẫn phải chịu sống kiếp nô lệ lầm than cho bọn thực dân, phong kiến. Tuy công việc lãnh đạo công cuộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc đã chiếm hầu hết thời gian của Người, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn không quyên, vẫn lo lắng đến đồng bào ở các vùng bị địch tạm chiếm, trong đó có cả đồng bào Lai Châu. Vào những ngày đầu năm mới, những ngày kỷ niệm lớn của dân tộc hoặc để động viên tinh thần quân dân tham gia những chiến dịch lớn.v.v…Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gửi thư khen ngợi, động viên đến đồng bào và chiến sĩ cả nước, trong đó có đồng bào Lai Châu.    Sự quan tâm, lo lắng, động viên của Người đến đồng bào Lai Châu thường được thể hiện ở những bức thư Người viết gửi chung cho bộ đội, đồng bào Tây Bắc như: Thư gửi các chiến sĩ dân công ở mặt trận Tây Bắc (1/10/1952), Thư gửi bộ đội và dân công ở mặt trận Tây Bắc (25/12/1952)… Những bức thư này đến được với bộ đội và dân công ở mặt trận Tây Bắc có sức mạnh to lớn, động viên kip thời đồng bào Tây Bắc phát huy nguồn hậu cần tại chỗ phục vụ cho chiến dịch, trước hết là lực lượng thanh niên nam nữ các dân tộc Tây Bắc, các dân tộc Lai Châu; thể hiên niềm tin tưởng của Người vào lòng yêu nước nồng nàn của đồng bào Tây Bắc nói chung, của đồng bào Lai Châu nói riêng.
         Trên đà thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954, ngày 20/11/1953, bộ đội chủ lực ta, được sự giúp đỡ của đồng bào Lai Châu, đã giải phóng gần như toàn bộ Lai Châu ( trừ Điện Biên Phủ)[5]. Tin vui đến với Chủ tịch Hồ Chí Minh, với tấm lòng luôn quan tâm, lo lắng đến đồng bào Lai Châu như với đồng bào miền Nam, Người đã viết thư gửi ngay cho đồng bào và cán bộ Lai Châu vào ngày 12/12/1953. Thư tuy ngắn gọn, nhưng lời ít ý nhiều, chứa chan tấm lòng trời biển của người cha già dân tộc đối với đồng bào và cán bộ Lai Châu:
    Ngay đầu thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tình cảm đằm thắm, luôn quan tâm, lo lắng, thương cảm, mong chờ đối với đồng bào Lai Châu – đồng bào Lai Châu luôn trong trái tim của Người và Người đã viết vơi nhịp đập của trái tim mình: “ Đã hơn 80 năm nay, đồng bào tỉnh nhà bị thực dân Pháp và Việt gian phản động áp bức, bóc lột, lừa bịp; chưa hề được hưởng hạnh phúc, độc lập, tự do như đồng bào các nơi khác. Tôi và Chính phủ luôn luôn thương xót đồng bào”[6]. Trên thực tế, cuộc tổng khởi nghĩa trong cách mạng Tháng Tám 1945 đã giành thắng lợi trên cả nước, nhưng một số thị xã đã bị quân đội Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đóng từ trước[7] như: Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên. Khi quân Tưởng buộc phải rút về nước, chúng đã nhượng cho thực dân Pháp cùng bề lũ tay sai của Pháp tiếp tục thống trị, áp bức, bóc lột đồng bào Lai Châu. Vây là, đồng bào Lai Châu, từ năm 1858 đến cuối năm 1953, vẫn phải sống kiếp nô lệ, lầm than. Chủ tịch Hồ Chí Minh thương sót đồng bào Lai Châu, tính đến từng ngày trong suốt hơn 80 năm, “ chưa hề được hưởng hạnh phúc, độc lập, tự do như đồng bào các nơi khác”. Người đã nói: Một ngày mà tổ quốc chưa được độc lập, nhân dân chưa được tự do là một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên…Đặc biệt là đối với đồng bào Nam Bộ và đồng bào Lai Châu.
     Bậc đại nhân là những người đău khổ trước những đău khổ của người khác, vui sướng trước vui sướng của người khác. Khi tiếp và trả lời phỏng vấn phóng viên báo Granma (CuBa), Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Mỗi người, mội gia đình đều có nỗi đău khổ riêng và gộp cả những nỗi đău khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đău khổ của tôi”[8]. Trước cuối năm 1953, Người đău khổ, thương sót đồng bào Lai Châu bao nhiêu, thì khi nhận tin Lai Châu được giải phóng, Người vui sướng bấy nhiêu và viết thư thăm hỏi ân cần: “Ngày nay đồng bào đã được bộ đội Chính phủ giải phóng khỏi ách thực dân và phản động; tôi thay mặt Chính phủ thân ái gửi lời hỏi thăm đồng bào và cán bộ”[9]
    Tình thương yêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với đồng bào và cán bộ Lai Châu không chỉ dừng lại ở đó, Người còn động viên và căn dặn ân cần vì công cuộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc vẫn còn tiếp diễn. Người viết tiếp: “Sau đây tôi có mấy lời dặn đồng bào và cán bộ ghi nhớ và làm cho đúng:
   1- Đoàn kết thân ái giúp đỡ lẫn nhau.
   2- Giúp đỡ bộ đội diệt phỉ, trừ gian, giữ gìn trật tự.
   3- Ra sức tăng gia sản xuất để mọi người được ấm no.
   4- Hết sức trung thành với Tổ quốc và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Còn đối với những người trước đây đã lầm đường theo giặc nếu trở về với Tổ quốc thì Chính phủ sẽ khoan hồng.”[10]. Những lời động viên, căn dặn ân cần ấy đã xác lập địa vị và nghĩa vụ làm chủ của đồng bào, cán bộ Lai Châu trong công cuộc vừa kháng chiến, vừa kiến quốc do Đảng ta lãnh đạo, đồng thời cũng thể hiện rõ đức độ khoan hồng của Người, của Đảng, Chính phủ và của toàn thể đồng bào Lai Châu đối với những người đã lầm đường theo giặc nếu trở về với tổ quốc, với đồng bào…
    Trong thư, khi xác định địa vị và nghĩa vụ làm chủ nước nhà của đồng bào Lai Châu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đội ngũ cán bộ Lai Châu là “công bộc” của dân và nhắc nhở: “Cán bộ thì phải thật sự gần gũi giúp đỡ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết”[11]- bất cứ việc gì có lợi cho dân thì ta phải làm, bất cứ việc gì có hại cho dân thì ta phải tránh. Đó là những yêu cầu cốt tử của người cán bộ tốt mà Người đã dầy công tổng kết thành quy luật: Có cán bộ tốt việc gì cũng xong.
    Cuối cùng Chủ Tịch Hồ Chí Minh chúc đồng bào và cán bộ mạnh khỏe và cố gắng.
          Đây là bức thư mà Người dành riêng cho đồng bào và cán bộ Lai Châu. Thư không chỉ thể hiện tình cảm đằm thắm và mong muốn thiết thực  của Người đối với đồng bào, cán bộ Lai Châu, mà còn có ý nghĩa lý luận và thực tiến đối với cách mạng nước ta. Trong thư, Người đã tổng kết nhiều quy luật của cách mạng giải phóng dân tộc và xây dựng, kiến thiết đất nước như:  chiến tranh nhân dân, quyến và nghĩa vụ làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng và công bằng của các dân tộc, đại đoàn kết, những phẩm chất của đội ngũ cán bộ - công chức, chủ nghĩa nhân văn sâu sắc… Trong đó nhiều vấn đề lý luận cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
        Ngay său chiến dịch Điện Biên Phủ đại thắng, ngày 8/5/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư khen ngợi bộ đội, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây Bắc mà đồng bào Lai Châu là lực lượng tại chỗ. Người viết: “ Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ. Bác và Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang… Bác và Chính phủ sẽ khen thưởng những cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào địa phương có công trạng đặc biệt”[12].
Đồng bào và cán bộ Lai Châu đã tích cực làm theo lời Người, đóng góp nhiều trí tuệ, công sức, tiền của cho chiến dịch Điện Biển Phủ và có vinh dự lớn góp phần   “làm cho tiếng tăm dân tộc Việt Nam ta lừng lẫy khắp năm châu”[13]
        Từ khi Khu tự trị Thái – Mèo được thành lập (7/5/1955)*, đến trước khi Người qua đời, Người vẫn luôn quan tâm, giành tình cảm thắm thiết cho đồng bào và cán bộ Lai Châu, được thể hiện trong những bức thư Người viết gửi chung cho đồng bào, cán bộ Khu tự trị Thái – Mèo và cho riêng tỉnh Lai Châu. Tiêu biểu là
: Thư gửi đồng bào Khu tự trị Thái – Mèo (7/5/1955), Thư  gửi Khu tự trị Thái – Mèo (7/5/1956), Thư gửi Đồng bào, bộ đội và cán bộ Tây Bắc (24/3/1958), Thư gửi đồng bào, bộ đội, cán bộ Châu Điện Biên (7/5/1959)…
        Trong các bức thư đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: Khu tự trị Thái - Mèo của chúng ta ngày nay là dân chủ, do nhân dân làm chủ. Nó khác hẳn với “xứ Thái tự trị” giả hiệu của địch mà mục đích là để chia rẽ và áp bức các dân tộc. Ngày nay, Đảng và Chính phủ thành lập Khu tự trị Thái - Mèo là nhằm mục đích làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lý lấy mọi công việc của mình, để mau chóng phát triển kinh tế và văn hóa của mình, để thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt.  Nhưng Người khẳng định: Khu tự trị Thái - Mèo là một bộ phận khăng khít trong đại gia đình Việt Nam, cùng với các dân tộc anh em khác đoàn kết thành một khối như ruột thịt. Nó sẽ luôn luôn được sự giáo dục và lãnh đạo của Đảng và của Chính phủ và sự giúp đỡ của các dân tộc anh em khác. Người cũng động viên và nhắc nhở: Đồng bào Tây Bắc có cái vinh dự đặc biệt  là thành lập khu tự trị đầu tiên. Vì vậy, đồng bào Tây Bắc cũng có cái nhiệm vụ đặc biệt: là phải cố gắng làm gương mẫu cho những khu tự trị khác sẽ dần dần thành lập sau này. Để thực hiện được những yêu cầu ấy thì vấn đề cán bộ có tầm quan trọng to lớn. Vì vậy, Người nhắc nhở: Trong đội ngũ cán bộ thì có cán bộ cũ và cán bộ mới, cán bộ địa phương và cán bộ từ nơi khác (miền xuôi, miền ngược) đến làm việc, cán bộ quân sự và cán bộ Đảng, Chính quyền, có nam có nữ, có gìa có trẻ…nên cần phải thật thà đoàn kết, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Phải kiên quyết chống bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham ô, lãng phí, địa phương chủ nghĩa, công thần, tự cao tự đại…


*. Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng
[1]. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000, Tập 4, Tr. 161
[2] .Hồ Chí Minh toàn tập, S.Đ.D, Tập 4, Tr. 152
[3] . Xa xưa, Lai Châu là một châu thuộc phủ Điện biên, lộ Hưng Hóa. Thời thuộc Pháp, tỉnh Lai Châu được thành lập theo Nghị định ngày 28/6/1909 của Toàn quyền Đông Dương, đặt dưới sự cai trị tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp vầ tay sai phong kiến cho đến cuối năm 1953. Thời kỳ 1953 – 1955, khi chính quyền cách mạng tiếp quản, Lai Châu  thuộc Khu Tây Bắc. Ngày 29/4/1955, tỉnh Lai Châu giải thể và được sáp nhập vào Khu tự trị Thái mèo. Ngày 27/10/1962, Khu tự trị Thái Mèo đổi tên thành Khu tự trị Tây Bắc đồng thời tái lập tỉnh Lai Châu gồm 7 huyện:  Mường Tè,  Mường Lay, Sình Hồ (nay là Sìn Hồ), Điện Biên, Quỳnh Nhai, Tuần  Giáo, Tủa Chùa. Tháng 11/2003, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Lai Châu  thành tỉnh Lai Châu  mới và tỉnh Điện Biên. Tỉnh Lai Châu  hiện nay gồm  Thị xã Lai Châu và 6 huyện: Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường, Than Uyên và Tân Uyên ( tách  ra từ  huyện  Than Uyên)

[4] .Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hầ Nội, 2011, Tập 4, Tr. 155 - 156
[5] . Trần Bá Đệ: Lịch sử Việt Nam từ 1858 đến nay, Nxb.Đại học quốc gia Hà Nội, 2001, Tr. 290
[6] . Hồ Chí Minh: T oàn tập, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2011, Tập 8, Tr. 367
[7] . Trần Bá Đệ: Lịch sử Việt Nam từ năm 1958 đến nay, S đd, Tr.209
[8] . Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb.CTQG, Hà Nội, 2000, Tập 10, Tr. 373
[9] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 367
[10] . Hồ Chí Minh: Toàn Tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 367
[11] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 367
[12] . Hồ Chí Minh: Toàn Tập, S.đ.d, Tập 8, Tr. 467
* Theo Sắc lệnh số230 – SL của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 29/4/1955, ban hành bản quy định về việc thành lập Khu tự trị Thái – Mèo.
[13] .Hồ Chí Minh: Toàn tập,S.đ.d, Tập 11, Tr. 397

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...