Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2016

Giá trị đạo đức trong Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh

Toàn văn bản Di chúc của Bác là kết tinh những triết lý nhân sinh hết sức cô đọng, sâu sắc ở nhiều tầng bản chất, có lẽ phải qua nhiều thế hệ kế tiếp mới có thể lý giải thoả đáng. Tuy vậy, bước đầu có thể khẳng định được rằng: Những điều mong muốn cuối cùng của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1] cũng chính là những mục tiêu chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta mà Bác di chúc lại cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để hướng dẫn việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu ấy, Bác đã viết bằng cả tâm huyết của mình bản Di chúc thiêng liêng, mà trong đó cái hạt nhân và cũng là cái bản chất nhất là Bác mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, mỗi người, mỗi đảng viên và cán bộ phải nêu gương suốt đời tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng.

          Cái hạt nhân ấy cũng là cái bản chất nhất ấy hoàn toàn không chỉ là sản phẩm nhất thời của tư duy toả sáng, mà là kết quả tất yếu trong suốt cuộc đời hoạt động của Bác được tích luỹ lại, trên cơ sở thấy rõ vai trò của con người. Theo Bác, phàm tất cả những cái gì thuộc về đời sống xã hội cũng đều do con người làm ra, vì con người và được thực hiện bởi con người với những động cơ, mục đích và phương pháp khác nhau. Động cơ, mục đích và phương pháp ấy, trước hết là do đạo đức tự điều chỉnh để hướng con người đạt tới các giá trị chân, thiện, mỹ, tránh được cái xấu xa vô đạo… Vì vậy, đạo đức luôn là gốc của con người nói chung và theo đó đạo đức cách mạng là gốc của những chiến sĩ cách mạng, là gốc của cán bộ, đảng viên và của cả nhân dân lao động. Nhờ có đạo đức cách mạng mà người chiến sĩ cách mạng có thể vượt qua mọi khó khăn gian khổ, thậm chí còn bị tù đầy, tra tấn, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ do cách mạng yêu cầu.Vì vậy sự nghiệp cách mạng luôn yêu cầu người chiến sĩ cách mạng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức, nêu cao tấm gương đạo đức như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong… Những điều giáo huấn này đã được Bác nhấn mạnh nhiều lần trong các bài viết, bài nói của Người. Ví dụ: Bác nói đến tư cách một người cách mệnh ở trang mở đầu của tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (xuất bản năm 1927). Bác nói rõ đạo đức là hạt nhân của người chiến sĩ cách mạng, vào ngày 27-1-1956, ở lớp nghiên cứu chính trị khoá I tại trường đại học nhân dân Việt Nam (nay là Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội): “Theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy có thể tóm tắt trong 11 chữ: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân”.
          Nói tóm tắt, “minh minh đức” là chính tâm, “thân dân” là phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết.
          Nói một cách khác , tức là “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”[2].
          Trong cả bản Di chúc lần đầu (viết năm 1965) và bản Di chúc lần cuối (viết năm 1969), Bác vẫn nhắc lại cho toàn Đảng và toàn dân ta cái hạt nhân ấy – cái then chốt và cũng là cái bản chất nhất ấy, nhưng lần này Bác nói rất rõ, thật cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm y như Bác đang trực tiếp cầm tay chỉ việc cho đàn con cháu vậy: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”[3]. Phân tích đoạn Di chúc  này sẽ thấy rõ điều đó:
          “Đảng ta là một đảng cầm quyền” nghĩa là Đảng ta đã có chính quyền cách mạng trong tay – một cơ quan quyền lực tối cao, chính thống để tổ chức toàn dân giữ gìn giang sơn, đất nước, giữ vững độc lập tự chủ, giữ vững chế độ và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Nhưng nội dung và vị thế của "Đảng cầm quyền", như Bác đã nhiều lần cảnh báo, cũng chứa đựng trong nó nhiều nguy cơ nghiêm trọng, mà trực tiếp, lâu dài lớn dần và khó khắc phục nhất là sự xuống cấp, thoái hoá biến chất dần dần về phẩm chất đạo đức cách mạng sang mặt đối lập của nó là chủ nghĩa cá nhân, dẫn tới sự suy thoái về chính trị, tư tưởng của một bộ phận đảng viên, cán bộ có chức có quyền trong hệ thống chính trị, trước sự cám dỗ rất khó vượt qua của mặt trái quyền lực và lợi ích vật chất đang từng ngày đòi hỏi được nâng cao vượt quá xa khả năng đáp ứng của một nền kinh tế vẫn còn nghèo nàn, lạc hậu và âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch… Nếu nguy cơ của thứ giặc nội xâm này không được khắc phục, loại trừ thì tất yếu sẽ dẫn tới nguy cơ lớn hơn, nghiêm trọng nhất là làm mất dần niềm tin yêu của nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, với chế độ. Bác đã nói rõ nguy cơ này khi Người chỉ ra rằng:
          “- Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
-  Không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”[4]
Nghĩa là đứng trước nguy cơ “lật thuyền cũng là dân”[5] mà nhiều vĩ nhân đời trước đã cảnh tỉnh. Với những ý nghĩa ấy, “Đảng ta là một đảng cầm quyền” cũng còn là nguyên nhân bên trong đòi hỏi mỗi đảng viên và cán bộ phải “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, chống chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên đã nêu cao tấm gương đạo đức cách mạng thì nhất định toàn dân sẽ tin tưởng, noi theo, một lòng một dạ đi theo Đảng, đem hết công sức và tài trí đưa cách mạng đến thắng lợi. Đây chính là hạt nhân, là vấn đề bản chất nhất đảm bảo cho cách mạng thành công. Sự thắng lợi của cách mạng nước ta từ khi có Đảng ta lãnh đạo đến nay đã chứng minh rõ quy luật đó.
          Nhưng đạo đức cách mạng, trong tư tưởng của Bấc, rất sâu sắc và rộng lớn, được thể hiện tập trung ở yêu cầu nhiều mặt của hệ thống các chuẩn mực đạo đức (còn gọi là tiêu chuẩn, quy phạm, quy tắc đạo đức…) với nhiều tầng bản chất từ trừu tượng đến cụ thể. Có cả những chuẩn mực đạo đức cơ bản, rất sâu sắc, trừu tượng; lại có cả những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể… Hệ thống các chuẩn mực đạo đức cụ thể này chính là sự cụ thể hoá các chuẩn mực đạo đức cơ bản, gắn liền với suy nghĩ và hành vi của con người, nên rất dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm nhất. Do là sự cụ thể hoá của các chuẩn mực đạo đức cơ bản, trừu tượng, nên khi đã thấm nhuần và thực hiện tốt các chuấn mực đạo đức cụ thể thì cũng có nghĩa là đã đáp ứng được yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức cơ bản và ngược lại. Xuất phát từ đặc điểm của tư duy và hành động của đại đa số nhân dân, đảng viên và cán bộ nước ta, Bác đã kỳ công nghiên cứu và tổng kết thực tiễn để chỉ ra hệ thống các chuẩn mực đạo đức cách mạng cụ thể ấy là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Bác đã có bài viết chuyên về cần, kiệm, liêm, chính để giải thích rõ yêu cầu của mỗi chuẩn mực. Nghiên cứu cách viết của Bác về các chuẩn mực này sẽ thấy một điều thú vị - một sáng tạo rất tinh tế của Bác: Khi nhằm giải thích rõ từng chuẩn mực thì Bác tách chúng bằng dấu phẩy(cần, kiệm, liêm, chính), có khi có cả xuống dòng. Nhưng khi đòi hỏi phải nhận thức và thực hiện các chuẩn mực đó một cách đồng bộ, chỉnh thể, liên thông (nghĩa là không thể tách rời,  khu biệt riêng lẻ từng chuẩn mực) để hợp thành phẩm chất đạo đức cách mạng, thì Bác viết các chuẩn mực ấy liền nhau, không đặt dấu phẩy giữa chúng (cần kiệm liêm chính, chí công vô tư)[6]. Như vậy, thấm nhuần và nêu cao tấm gương đạo đức “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” mới chỉ đạt được một phẩm chất của đạo đức cách mạng. Để “thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, Bác còn yêu cầu “phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” Nghĩa là suốt đời phục vụ nhân dân, dặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Bất cứ cái gì có lợi cho dân phải hết sức làm, bất cứ cái gì có hại cho dân phải hết sức tránh  – “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Thấm nhuần và nêu cao tấm gương đạo đức này, cùng với “cần kiêm liêm chính, chí công vô tư” mới được coi là “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”.
          Tóm lại cái hạt nhân toả sáng – cái bản chất nhất được Bác di chúc lại cho toàn đảng, toàn dân ta, mà trước hết cho mỗi đảng viên và cán bộ là “thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” và “phải xứng đáng… là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Bởi vì chỉ có như vậy mới “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, mới “xứng đáng là người lãnh đạo” của nhân dân và mới có thể “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” khi Đảng ta đã trờ thành một đảng cầm quyền.



[1] Ban tư tưởng – văn hoá Trung ương: Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…, Nxb CTQG, Hà Nội – 2007, tr 89
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 8, tr.215
[3] Khu di tích Hồ Chí Minh tại phủ chủ tịch: Bác Hồ viết tài liệu Tuỵệt đối bí mật, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội – 2008, tr 27 và 47.
[4] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 2000, tập 12, tr.187
[5] Nguyễn Trãi đã giải thích rõ câu này của Tuân Tử (Tuân Huống thời xuân thu chiến quốc của Trung Quốc cổ đại) để cảnh tỉnh thái tử con vua Lê Lợi
[6] Ở cả hai bản di chúc (năm 1965 và năm 1969) Bác đều viết các chuẩn mực này liền nhau (cần kiệm liêm chính, chí công vô tư)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...