Hội nhập và phát triển mang trong
chúng mỗi quan hê nhân quả chuyển tiếp. Hội nhập để phát triển và trong phát
triển có hội nhập. Mối quan hệ nhân nhân – quả quả - nhân nhân… cứ như vậy ấy của
hội nhập và phát triển là quy luật chung trong sự vận động tiến lên mãi của mỗi
quốc gia dân tộc, của mỗi con người và cả loài người. Vấn đề quan trọng là hội
nhập và phát triển như thế nào? Giải quyết vấn đề này phụ thuộc nhiều vào ý
nguyện của dân chúng và chính sách của mỗi quốc gia ở mỗi hoàn cảnh lịch sử nhất
định. Đối với Việt Nam hiện nay, mong muốn hội nhập, tích cực hội nhập, chủ động
hội nhập để phát triển nhưng không muốn “hoà tan”; phấn đấu phát triển đất nước,
nhưng không muốn “tự đánh mất mình”; luôn tự hào về sự lớn mạnh của mình chứ
không muốn “Bốn nghìn năm ta lại là ta”… Hy vọng bài viết nhỏ này có thể đóng
góp chút ít gì đó vào việc thực hiện những mục tiêu có vẻ “khiêm tốn” ấy!
Trước
đây, quan niệm tương đối phổ biến cho rằng các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt
Nam ,
xuất hiện muộn màng, trì trệ và chậm tiến. Nhưng sự thật lịch sử đã bác bỏ quan
điểm kỳ thị lỗi thời ấy:
Vào
thời cách đây hàng chục vạn năm, con người đã sinh sôi ở nhiều nơi trên đất Việt
Nam và Đông Nam Á. Những hoá thạch người vượn ở Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng
Sơn), ở Thẩm Ồm (Nghệ An – Hà Tĩnh) và những di tích sơ kỳ đá cũ ở núi Đọ - Thanh
Hoá, ở Hang Gòn – Dầu Giây (Xuân Lộc) ở lưu vực sông Đồng, Lai… đã chứng minh
rõ điều này. Như vậy “Việt Nam
trong bối cảnh chung của cả khu vực Đông Nam Á, nằm trong khu vực quê hương của
loài người”[1].
Để
khắc phục điều kiện tự nhiên, người Việt cổ luôn cải tiến công cụ sản xuất từ
những cành cây, hòn đá có sẵn (đá cũ) tiến tới việc chế tác đá (đá mới) chuyển
dần tới chế tạo công cụ bằng đồng và bằng sắt. Nhờ đó mà sản xuất cũng phát triển
theo từ hái lượm, săn bắn đến trồng trọt, chăn nuôi… Cách đây khoảng từ 6 đến 5
nghìn năm trước công nguyên, cư dân Việt Nam đã tiến từ nông nghiệp sơ khai
lên nền nông nghiệp lúa nước. Việt Nam lại được ghi nhận là một trung
tâm phát sinh nông nghiệp sớm của loài người. Cùng với đà kinh tế phát triển,
các mặt về văn hoá xã hội cũng chuyển biến theo. Đó là quá trình liên kết thị tộc
thành bộ lạc (bộ tộc) và chuyển từ công xã thị tộc (công xã nguyên thuỷ) thành
công xã nông thôn, quá trình liên minh các bộ tộc thành quốc gia dân tộc với cơ
cấu nhà nước sơ khai. Đó cũng là quá trình tác động và dung hợp nhiều nền văn
hoá địa phương của các bộ tộc khác nhau, cũng như văn hoá bản địa với văn hoá
ngoại lai (chủ yếu là với văn hoá Hán tộc) thành một nền văn hoá chung thống nhất
trong tính đa dạng mà văn hoá bản địa là nền tảng, là mẫu số chung trong việc
dung hợp với văn hoá ngoại lai. Đó cũng là quá trình hình thành cư dân Việt cổ
và tiếng Việt cổ, xã hội Việt cổ với kết cấu Nhà – Làng – Nước mang sắc thái
riêng trong cơ cấu xã hội cổ truyền Việt Nam. Những thành tựu văn hoá tiền sử ấy
là những bước chuẩn bị điều kiện tiền đề đưa lịch sử Việt Nam tiến lên thời đại
dựng nước và giữ nước thời Hùng Vương – An Dương Vương[2]
(khoảng từ 2879 – 179 trước công nguyên), đánh dấu bước phát triển về mọi mặt
trong tiến trình lịch sử dân tộc, “đặt cơ sở vững chắc cho toàn bộ sự tồn tại
và phát triển của quốc gia dân tộc sau đó”[3].
Từ
năm 179 trước CN đến 931 sau CN, nước ta chịu sự đô hộ tàn độc của các triều đại
Trung Quốc với âm mưu sáp nhập nước ta vào Trung Quốc bằng chính sách Hán hoá
khá toàn diện. Được nuôi dưỡng lòng tự hào, tự tôn dân tộc với ý chí quyết tâm
giữ nước của thời đại Hùng – Thục trong suốt 1110 năm, người Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của các vị anh hùng dân tộc đã nhiều lần nổi dậy khởi nghĩa đánh đuổi
xâm lược. Đã có nhiều cuộc khởi nghĩa giành lại quyền độc lập dân tộc trong một
thời gian ngắn như: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 – 43), Lí Bí còn gọi là Lí Bôn
– Lí Nam Đế (542 – 548), Triệu Quang Phục – Triệu Việt Vương (549 – 571), Lý Phật
Tử (571 – 602), Mai Thúc Loan – Mai Hắc Đế (722), Phùng Hưng – Bố Cái Đại Vương
(791 – 802), Họ Khúc lập nghiệp (906 – 923) và Dương Đình Nghệ (931 – 938)[4].
Nhưng dù gì thì đêm trường Bắc thuộc đã kéo dài trên 11 thế kỷ. Đó là một thảm
hoạ khủng khiếp, một trở ngại to lớn tưởng chừng khó vượt qua. Kỳ diệu thay, đất
nước ta, dân tộc ta chẳng những đã không bị diệt vong qua chặng đường lịch sử đầy
gian nan ấy, mà còn giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành và giữ vững độc
lập chủ quyền quốc gia dân tộc. Các thế hệ anh hùng từ Bà Trưng đến Ngô Quyền
đã biết thổi bùng ngọn lửa quật cường bất khuất chôn vùi mộng xâm lược và dã
tâm đồng hoá của các vương triều Trung Quốc rất hùng mạnh trong thời kỳ này.
Người Việt đã giành lại được non sông đất nước và giữ gìn được nền văn hoá của
mình; hơn nữa còn biết hấp thụ có chọn lọc những nhân tố văn hoá của Trung Quốc
làm phong phú thêm văn hoá dân tộc và tăng thêm tiềm lực của đất nước, chuẩn bị
lực lượng cho những cuộc chiến sau này. Phải chăng đây là những bài học kinh
nghiệm của hội nhập và phát triển đầu tiên của nước ta? Phải chăng kết hợp truyền
thống của thời kỳ Hùng – Thục với cách tân về kinh tế, chính trị, văn hoá thời
kỳ Bắc thuộc; kết hợp nội lực với ngoại lực… là trụ cột để dựng nước, giữ nước
và phát triển đất nước của tổ tiên ta?
Với
chiến thắng Bạch Đằng (đánh tan quân xâm lược Nam Hán), Ngô Quyền nối tiếp tổ
tiên Hùng – Thục xưng vương, mở đầu một kỷ nguyên lịch sử mới của dân tộc – kỷ
nguyên độc lập, tự chủ trải qua 10 triều đại phong kiến Việt Nam[5]
bắt đầu từ năm 938 đến năm 1802 kéo dài gần 9 thế kỷ. Đây cũng là thời kỳ mở
mang bờ cõi, định hình đất nước và đấu tranh giữ nước oanh liệt của các dân tộc
Việt. Đáng tiếc là sau đó Nguyễn Ánh cõng rắn cắn gà nhà, cầu viện đế quốc Pháp
vào xâm lược nước ta, biến nước ta thành một nước thuộc địa nửa phong kiến với
hơn 80 năm nước mất nhà tan, lầm than nô lệ. Lịch sử nước ta đã lặp lại nhưng với
quy mô và tính chất mới, toàn dân ta với truyền thống “một dân tộc độc lập và một
quốc gia có chủ quyền” đã nhất tề nổi dậy đánh đuổi quân xâm lược. Từ năm 1930
đến năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam,
cuộc đấu tranh giành lại độc lập tự do đã theo đúng quy luật của lịch sử và đã
giành thắng lợi vẻ vang, lại đưa nước ta vào một kỷ nguyên phát triển mới hào hùng
hơn, oanh liệt hơn – kỷ nguyên của nền dân chủ cộng hoà và xây dựng chủ nghĩa
xã hội với hai chiến công đánh thắng đế quốc Pháp và Mỹ chói lọi địa cầu. Ngày
nay cả dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng quang vinh, đang thực hiện thành
công mơ ước của lãnh tụ Hồ Chí Minh: xây dựng đất nước ta to đẹp hơn, đàng
hoàng hơn với mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh. Ở đây yếu tố quyết định vẫn là biết tích tụ nội lực hàng nghìn năm dựng
nước và giữ nước của tổ tiên kết hợp với kết tinh tinh hoa văn hoá nhân loại, cả
vật chất và tinh thần, của thời đại mới – Thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới với nhiều bước quanh co, thậm
chí có cả thụt lùi, khó tránh khỏi. Đó cũng chính là phương sách (đường lối,
chính sách) giải quyết đúng đắn nhất mối quan hệ của hội nhập với phát triển do
Hồ Chí Minh khởi xướng và Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức thực hiện thành công. Yếu
tố chủ đạo nhất của các sự biến lịch sử đó là biết phát huy chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam – sức mạnh văn hoá
Việt Nam
mà trong đó hạt nhân là đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Đạo
lý “Uống nước nhớ nguồn” được khái quát từ nhiều mối quan hệ nhân quả trong đời
sống xã hội kế tiếp nhau từ quá khứ đến hiện tại tới tương lai, được tổng kết từ
nhiều cách tiếp cận khác nhau như: Cây phải có gốc, sông phải có nguồn, núi cao
bởi có đất bồi, ăn quả nhớ kẻ trồng cây, không thầy đố mày làm nên, con người
có tổ có tiên v.v… Cái trục xuyên suốt của đạo lý “uống nước nhớ nguồn” là lòng
biết ơn và đền đáp công ơn của con người đối với con người, đối với làng bản
xóm thôn, đối với giang sơn đất nước. Trong đó đời sống của con người hiện tại
đều được nảy sinh nhờ được chuẩn bị, tạo điều kiện thuận lợi từ tất cả những
cái tương ứng trong quá khứ. Cái hiện tại đó lại chuẩn bị mọi điều kiện cho sự
ra đời và tồn tại của cái tương lại… Như vậy, các thế hệ sau bao giờ cũng biết
ơn và đền đáp công ơn đối với các thế hệ trước. Sự đền ơn đáp nghĩa qua các thế
hệ được củng cố vững chắc thêm nhờ tác động của tín ngưỡng, tôn giáo, càng làm
cho sư đền ơn đáp nghĩa ở hiện tại thêm phong phú và sâu sắc.
Đạo
lý “uống nước nhớ nguồn” ở Việt Nam có nhiều cấp độ rộng hẹp, cao thấp nhất định,
nhưng có thể mô hình hoá với ba cấp độ tạo thành hình tháp: 1 là biết ơn và đền
đáp công ơn ở cấp độ gia đình (nhà) với tín ngưỡng tổ tiên – con cháu biết ơn
và đền đáp công ơn đối với cha mẹ, ông bà, tổ tiên: “Công cha như núi Thái Sơn.
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra…” Đây là cấp độ cơ sở trực tiếp nhất, sâu
sắc và vững bền nhất, là nền tảng tinh thần sâu rộng của quốc gia dân tộc như
là tầng đáy tháp. 2 là biết ơn và đền đáp công ơn ở cấp độ làng xã với tín ngưỡng
thần linh, chủ yếu là thành hoàng – những người có công lập, xây dựng, bảo vệ,
phù hộ độ trì làng bản xóm thôn quê hương được thịnh vượng. Đây là tần giữa của
tháp. Đỉnh của tháp là tầng thứ ba, với tín ngưỡng các Thượng, Trung và Hạ đẳng
thần, phản ánh lòng biết ơn và đền đáp công ơn của cả nước đối với những vị thần
tối cao, tượng trưng cho khi thiêng sông núi Việt Nam và những vị anh hùng,
nghĩa sĩ có công dựng nước và giữ nước…
Nội
dung của đạo lý “uống nước nhớ nguồn” ở cấp độ thứ nhất là lòng thành kính, hiếu
thảo với cha mẹ, ông bà… khi họ còn sống và thờ cúng họ khi họ đã chết. Lúc cha
mẹ, ông bà còn sống con cháu phải tuân theo sự dạy bảo và giúp đỡ họ, phải ăn ở
với anh em, chú bác, cô dì và làng xóm sao cho họ được hài lòng. Tục ngữ đã nêu
rõ “anh em như thể tay chân”, “sểnh cha còn chú”, “sểnh mẹ ấp vú dì” hay “bán
anh em xa, mua láng giềng gần”… Khi cha mẹ, ông bà… đã quy tiên, con cháu phải
luôn luôn nhớ tới công đức dưỡng dục của cha mẹ, ông bà và phải luôn cố gắng tu
dưỡng để khỏi phụ lòng mong muốn của họ. Đó cũng là cách tốt nhất để đền ơn đáp
nghĩa của họ. Lòng thành kính, báo đền ơn nghĩa ấy được thể hiện tập trung ở việc
lập bàn thờ tổ tiên.
Ở
Việt Nam ,
thờ cúng tổ tiên không phải là một tôn giáo mà chỉ dừng lại ở sự tín ngưỡng –
tín ngưỡng linh hồn của cha mẹ, ông bà… khi họ đã chết về thể xác. Có nhiều ý
kiến cho rằng linh hồn của con người đã chết về thể xác có thể tồn tại được khoảng
500 năm và dương sao âm vậy… Vì vậy việc thờ cúng tổ tiên là cần thiết không thể
thiếu được. Sự thờ cúng là môi trường gặp gỡ của linh hồn cha mẹ, ông bà khi họ
đã chết về thể xác với con cháu còn tại thế. Linh hồn thượng ngự trên bàn thờ để
được gần gũi cháu con, giám sát cháu con trong công việc hàng ngày và lúc cần
thiết có thể giúp đỡ con cháu mình được bình an, tai qua nạn khỏi. Sự tín ngưỡng
ấy ảnh hưởng trực tiếp đến suy nghĩ và hành động của người đang sống. Con cháu
vì lòng thành kính, biết ơn, sợ linh hồn cha mẹ, ông bà mình buồn tủi vì mình
và sợ mang tội bất hiếu nên ham làm điều thiện, điều lành, tránh làm điều ác điều
dữ… Khi định làm điều gì cũng suy nghĩ kỹ lưỡng xem linh hồn cha mẹ, ông bà có
chấp nhận, ủng hộ hay không, có vinh dự hay không hay là tủi hổ, đau buồn vì những
việc làm đó… Đôi khi do bất đắc dĩ phải làm những việc trái với lương tâm, người
ta cũng cầu xin linh hồn cha mẹ, ông bà… tha thứ và thường tự hứa sau này sẽ
không tái phạm nữa. Đạo lý làm người, cái gốc của gia đình và của quốc gia dân
tộc chính là những giá trị truyền thống đó.
Thờ
cúng tổ tiên (linh hồn cha mẹ, anh em, chú bác, cô dì, ông bà, cụ… đã chết) có
nhiều cấp độ, rất phong phú và linh hoạt về hình thức, nhưng biểu hiện tập trung
với ý nghĩa đầy đủ nhất là ngày giỗ cha mẹ. Đó chính là ngày kỷ niệm cuộc đời của
cha mẹ đúng vào ngày chết của họ, còn gọi là kỵ nhật. Trong ngày giỗ, con cháu,
họ hàng thân thích tụ họp lại với nhau để tỏ lòng thương nhớ người đã chết,
cùng nhau ôn lại những công đức, ơn nghĩa của cha mẹ đối với mỗi người con cháu
và cả gia đình, cùng nhau bàn bạc và giải quyết những công việc chung của gia
đình và dòng họ, cùng nhau tâm niệm, cầu khấn linh hồn cha mẹ phù hộ, độ trì
cho đàn con cháu ăn gia làm nên, vượt qua mọi tai ương vấn nạn. Đặc biệt là ai
cũng thầm hứa với linh hồn người chết sự phấn đấu, tu dưỡng của mình để linh hồn
cha mẹ được vui lòng nơi âm cảnh… Những ngày giỗ hàng năm như vậy là một truyền
thống đẹp của văn hoá Việt Nam: Người sống biết tự sửa lỗi mình, phát huy những
ưu điểm của truyền thống gia đình, dòng họ và của bản thân; thường xuyên nhớ về
cội nguồn của mình, dù có đi làm ăn ở đâu cũng luôn hướng về quê cha đất tổ,
không bao giờ mất gốc; người sống qua đó tự hoàn thiện mình, đảm bảo thắt chặt
sợi dây đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong gia đình làng xóm… Giá trị
nhân văn sâu sắc của thờ cúng tổ tiên là như vậy. Học giả Phan Kế Bính, trong
tác phẩm “Việt Nam
phong tục” đã nhận xét rất sâu sắc rằng xét cái tục lệ thờ cúng tổ tiên của nước
ta là rất thành tâm, kính trọng, mà cái giá trị của nó cũng rất là to lớn lâu bền.
Nó là cái đạo làm người và cái gốc của quốc gia dân tộc – cây có gốc mới mở
cành xanh ngọn, nước có nguồn mới bể rộng, sông sâu, người ta phải có tổ tiên mới
có thể có mình. Bỏ tổ tiên không thờ phụng tức là mất gốc.
Đạo
lý “Uống nước nhớ nguồn” ở cấp độ thứ hai – cấp độ làng (danh từ chung chỉ cả
xã, bản, buôn, thôn, xóm, phường…” với tín ngưỡng thờ cúng Thành Hoàng làng.
Thành Hoàng làng là những người mà khi còn sống họ có công lập, mở rộng, bảo vệ
làng hoặc mở mang nghề nghiệp từ nông nghiệp, thủ công nghiệp đến nghệ thuật,
võ thuật… Khi họ chết, linh hồn của họ tiếp tục phù hộ độ trì cho làng tiếp tục
phát triển, hoặc góp phần trừ tà mà quỷ quái bảo vệ sự bình yên cho làng. Để
ghi nhớ công ơn của họ và tín ngưỡng sự linh thiêng của linh hồn hộ cũng như để
đền đáp công ơn đó, dân làng tôn họ làm thần Thành Hoàng – vị thần bảo hộ chung
cho cả làng. Thành Hoàng có thể là người ngụ cư mà cũng có thể là người từ nơi
khác đến; có cả những người mà khi họ còn sống chỉ là những người bình thường,
thậm chí rất nghèo khó, túng quãn phải đi gắp phân, ăn cắp, ăn mày, dâm đãng…
nhưng sau khi chết thì linh hồn của họ hiển linh bảo hộ cho làng, cầu được ước
thấy. Thành Hoàng cũng thường là những anh hùng, nghĩa sĩ có công dựng nước và
giữ nước được các triều đại phong kiến phong là thượng, trung và hạ đẳng thần.
Như
vậy, dù thân thế như thế nào, Thành Hoàng là vị thần tối cao của cả làng, cai
quản toàn thể làng xã về mặt tâm linh, được tổ chức thờ phụng, cúng tế quanh
năm. Trong đó ngày giỗ Thành Hoàng được tổ chức lớn nhất. Có ý kiến cho rằng,
trước nhà Trần, nơi thờ cúng Thành Hoàng là đền, phủ, miếu, miễu…, đến nhà Trần
mới được thờ cúng phổ biến ở đình làng[6].
Đình làng, từ đó, vừa là nơi tiếp rước vua, vừa là nơi thờ cúng Thành Hoàng và
hội họp chung của cả làng. Trên thực tế, đền hoặc miếu mới là nơi thần ngự, còn
đình chỉ là nơi thờ vọng, nghĩa là tại đình có bàn thờ, nhưng chỉ trong ngày giỗ
thần và ngày hội của làng thần Thành Hoàng mới giáng lâm tới đình, những ngày
khác lại về đền, miếu… Nếu ngày giỗ tổ tiên là ngày giỗ của gia đình, thì ngày
giỗ Thành Hoàng là ngày giỗ của cả làng (ngày thần kỵ). Trong ngày thần kỳ, các
làng thường mở hội để tưởng nhớ đến công đức của thần, diễn lại thần tích, tổ
chức tế lễ, rước sách và có nhiều trò vui gắn với phong cách của thần. Vì vậy
giỗ chỉ có một ngày nhưng hội hè đình đám thường kéo dài nhiều ngày. Trong ngày
giỗ, đức Thành Hoàng ngự tại đình làng. Ngài chứng kiến đời sống của dân làng,
lắng nghe lời cầu xin của dân làng, thông cảm với nếp sống và mọi kỷ niệm của
làng xã. Các luật lệ, thói tục, đạo đức, tín ngưỡng… được Ngài duy trì bảo hộ.
Ngài ủng hộ giúp đỡ người lương thiện, trừng phạt kẻ tà ác, đánh đuổi tà ma quỷ
quái v.v… Dân làng thờ phụng Thành Hoàng vì để tỏ lòng thành kính biết ơn là
chính, nhưng cũng vì tuân theo lệ làng,
sợ thần quở phạt và có dịp dự lễ hội vui chơi mở mang dân trí… thể hiện nét đẹp
văn hoá của địa phương. Qua đó mà nâng cao tình yêu với quê hương, tự hào về
truyền thống quê hương mình, quyết tâm bảo vệ quê hương, ra sức đoàn kết, đóng
góp xây dựng quê hương ngày càng thịnh vượng.
[1]
Lịch sử Việt Nam
, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội 1985, Tập 1, tr 160.
[2]
Đây là thời kỳ lịch sử bao gồm cả truyền thuyết về Kinh Dương Vương và Hồng
Bàng Thị. Lịch sử đời các vua Hùng khoảng từ
969 – 258 trước CN.
[3]
Sđd, tr 123.
[4]
Dương Đình Nghệ trị vì được 6 năm thì bị Kiều Công Tiễn sát hại để đoạt chức Tiết
độ sứ. Năm 938, Ngô Quyền, con rể của Dương Đình Nghệ tiến quân về Đại La bắt
giết tên nội phản Kiều Công Tiễn và chuẩn bị đánh quân xâm lược Nam Hán.
[5]
10 triều đại: Ngô, Đinh, Lê, Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Lê Trung Hưng, Nguyễn Quan
Trung
[6]
Toan Ánh, Phong tục Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội – 1991, tr 13 – Ghi lại
ý kiến của Trần Văn Giáp về vấn đề này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét