1- Đời
sống kinh tế là cơ sở hình thành đời sống văn hóa
C Mác viết: “…tiền đề đầu tiên của mọi
sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta
phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được
thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ
khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để
thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”[1]. Vận dụng sáng tạo tư tưởng
của C Mác vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ
nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển
văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải
đi trước…”[2] Cũng vì vậy, có thể khẳng
định rằng: con người với tư cách “người”, được bắt đầu bằng tự phân biệt với
súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.
Khái quát ở tầm rộng lớn nhất và cao
nhất về lý luận, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: Tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội. Đây là một nguyên lý cơ bản trong hệ thống quan niệm duy vật biện
chứng về lịch sử xã hội loài người của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khái niệm tồn tại
xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật
chất của xã hội. Các yếu tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội bao gồm: phương thức
sản xuất vật chất và các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý,
khí hậu và dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong một thể thống nhất, thường xuyên
tác động qua lại với nhau tạo thành những điều kiện sinh tồn và phát triển của
xã hội. Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất, quyết định
nhất. Nghĩa là toàn bộ đời sống kinh tế xã hội có vai trò quyết định thường
xuyên đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Khái
niệm ý thức xã hội dung để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy
sinh từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát
triển nhất định. Theo nội dung và lĩnh vực phản ảnh đời sống xã hội, ý thức xã
hội bao gồm các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức
đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học. v.v…Trong đó, văn
hóa được coi là nền tảng tinh thần của đới sống xã hội với nghĩa nó bao gồm ba
lĩnh vực tinh thần cơ bản: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ và văn hóa đời sống
gắn chặt với ba chức năng quy định đời sống tinh thần của xã hội:
Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và
tình cảm cao đẹp cho con người.
Hai là, nâng cao dân trí, bồi dưỡng
nhân tài
Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp,
những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người phấn đấu đạt tới cái chân, cái
thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện con người vươn tới “làm chủ bản thân,
làm chủ xã hội và làm chủ tự nhiên”
Như vậy,văn hóa là một loại hình sản xuất đặc
trưng của con người và xã hội loài người – loại hình xản xuất ra đời sống tinh
thần.
Tóm lại, tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội – quá trình sản xuất vật chất của xã hội, đời sống kinh tế của xã hội
(phương thức sản xuất vật chất xã hội) quyết định quá trình sản xuất đời sống
tinh thần của xã hội, quyết định đời sống văn hóa của xã hội. Do đó, không thể
tìm nguồn gốc của tư tưởng và tâm lý của con người và xã hội ở bản thân nó,
nghĩa là trong đầu óc con người, mà phải tìm trong đời sống sinh hoạt hiện thực
vật chất của con người và thời đại vật chất của xã hội. Nói theo như C Mác là “
phải giải thích ý thức bằng những mâu thuẫn của đồi sống vật chất, bằng sự xung
đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội với những quan hệ sản xuất xã hội”[3]. Quan điểm duy vật lịch sử
về nguồn gốc của ý thức xã hội, về nguồn gốc của đời sống văn hóa tinh thần xã
hội chỉ ra rằng: tồn tại xã hội, mà trong đó chủ yếu là đời sống kinh tế của xã
hội, quyết định đời sống tinh thần của xã hội, mà trong đó chủ yếu là đời sống
văn hóa tinh thần xã hội, không phải chỉ bằng cách trực tiếp mà thường thông
qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận, văn
hóa tinh thần nào cũng phản ảnh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ khinh tế của
thời đại, mà chỉ khi xét đến cùng thì mới thấy rõ vai trò quyết định của các
quan hệ kinh tế đối với các quan hệ văn hóa.
2 – Quá trình phát triển kinh tế là
tiền đề của quá trình phát triển văn hóa
Tất cả các yếu tố, các khâu, quá trình
và các mối quan hệ (chủ công là ở phương thức sản xuất) trong phát triển kinh tế
đều là những tiền đề, nguyên nhân sâu xa, có tính quyết định đến sự phát triển
toàn diện đời sống văn hóa tinh thần.
Từ lâu đã xuất hiện nhiều câu tổng kết:
“có thực mới vực được đạo” và rõ nhất là câu “phú quý sinh lễ, nghĩa” hay “giầu
lam sơn lắm kẻ tìm đến, khó giữa chợ chẳng có ai han”.v.v.. để phản ảnh chân lý phổ quát rất cụ thể rằng:
đời sống kinh tế của một cá nhân, của một gia đình và xã hội có phát triển phồn
thịnh, có bát ăn bát để, có giầu sang phú quý mới có đời sống văn hóa tinh thần
toàn diện, phong phú về cả lý luận và học thuyết, giáo dục (văn hóa giáo dục))
cũng như những cách thức sinh hoạt về ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp, ứng xử…đời
thường (văn hóa đời sống) và cũng trên hai lĩnh vực văn hóa đó mà phát triển một
loại hình văn hóa đặc biệt của xã hội loài người – văn hóa văn nghệ. Để làm sáng
rõ vai trò của phát triển kinh tế đối với phát triển của văn hóa có thể bằng
nhiều cách thức khác nhau: hoặc bằng cách phân tích những kết quả đạt được
trong quá trình phát triển kinh tế trên tất cả các mặt, các quá trình, các mối
quan hệ của nó. Hay bằng cách phân tích những điều kiện cần thiết mà bản thân sự
phát triển của văn hóa đòi hỏi. Bài viết này được trình bầy chủ yếu theo cách
thứ hai
Văn hóa với tính cách là nền tinh thần
của đời sống xã hội bao gồm ba nội dung cơ bản: văn hóa giáo dục, văn hóa văn
nghệ và văn hóa đời sống gắn liền với việc thực hiện những chức năng của văn
hóa như đã nói ở trên. Để văn hóa phát triển, nghĩa là đời sống văn hóa ở thời
đại sau phải phong phú hơn và cao hơn đời sống văn hóa ở thời đại trước, đòi hỏi
trước hết các bộ phận cấu thành của nó phải được phát triển đáp ứng được nhu cầu
ngày càng nâng cao đời sống tinh thần của con người và xã hội. Những nhu cầu ấy,
những đòi hỏi ấy rất đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ khó có thể thống kê
hết được. Nhưng dù đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ thế nào cũng đều được
thể hiện tập trung ở những yếu tố chung như: con người – chủ thể sáng tạo văn
hóa và hưởng thụ văn hóa; tổng thể những giá trị vật chất (văn hóa vật thể) và
những giá trị văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể) – những điều kiện không
thể thiếu của sự tồn tại và phát triền văn hóa ở mỗi thời đại; các phương thức
sử dụng những sản phẩm văn hóa của con người.v.v…
Trong ba bộ phận, ba mảng lớn cấu
thành đời sống văn hóa xã hội thì mảng văn hóa giáo dục giữ vai trò chủ công đối
với sự tồn tại và phát triển văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc. Chức năng chủ đạo
của văn hóa giáo dục là bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con
người, là nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài, là bồi dưỡng những phẩm chất
tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người phấn đấu đạt tới cái
chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện con người và xã hội loài người.
Văn hóa giáo dục là một mặt trận riêng có của con người, do con người và vì con
người. lịch sử phát triển của các nền văn minh trên thế giới qua các thời đại,
từ Cộng sản nguyên thủy đến Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến - Dân chủ tư sản và
ngày nay đang là những bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đã chứng minh rằng:
quy luật chung của sự phát triển xã hội nói chung, của sự phát triển văn hóa
nói riêng là phát triển văn hóa giáo dục. Những quốc gia dân tộc nào có nền văn
hóa giáo dục phát triển đều là những quốc gia hùng mạnh hơn so với những quốc
gia có nền giáo dục kém phát triển. Chủ nghĩa cộng sản là tương lai của loài
người vì chỉ có tiến lên xã hội cộng sản mới xây dựng và phát triển được một nền
văn hóa giáo dục tiên tiến hơn các xã hội trước đó, vì chỉ có ở đó con người mới
thực sự có tự do với nghĩa chân thực của nó là: “tất yếu được nhân thức” và nói
theo như C Mác “sự phát triển tư do của mỗi người là điều kiện cho sự phát tự
do của tất cả mọi người”. Nhận thức rõ vai trò to lớn đó của văn hóa giáo dục,
chủ yếu là phát triển khoa học – kỹ thuật – công nghệ, nên hầu hết các nước
trên thế giới ngày nay đều coi sự nghiệp phát triển, nâng cao văn hóa giáo dục
và đào tạo là quốc sách hàng đầu
Để phát triền và ngày càng nâng cao
văn hóa giáo dục đòi hỏi phải đáp ứng được những điều kiện, tiền đề thiết yếu:
Trước hết phải gia tăng và nâng cao trình độ đội ngũ những nhà nghiên cứu khoa
họa, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, cả khoa học cơ bản và khoa học ứng
dụng, cả lý luận khoa học và thực hành khoa học. Đồng thời phải phát triển đội
ngũ những nhà giáo dục – đội ngũ những người thày, cô giáo để: một mặt, họ có
nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giảng dạy những thành tựu khoa học, cả lý luận
và thực hành, cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Chất lượng của đội ngũ
những nhà nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo càng được nâng cao thì năng lực
trí tuệ và sáng tạo của quốc gia ngày càng lớn. Mặt khác, kết quả của quá trình
ấy là trình độ nhận thức và tay nghề của lực lượng lao động cũng ngày càng được
nâng cao, năng suất lao động ngày càng tăng, con người ngày càng thể hiện được
vai trò là chủ nhân của giới tự nhiên và thống trị tự nhiên. Tuy nhiên, để có
được những kết quả đó không thể chỉ bằng phát huy tài trí
khép kín ở trong nước, mà còn là kết quả của quá trình giao lưu và hợp
tác về văn hóa giáo dục với nhiều quốc gia trên thế giới, trược hết là với những
quộc gia có trình độ tiên tiến về văn hóa giáo dục. Như vậy, văn hóa giáo dục
chỉ được phát triển khi mà nó cuốn hút được tất cả mọi thành viên trong xã hội
cùng tham gia bằng cách này hay cách khác. Trong đó, đội ngũ những nhà nghiên cứu
khoa học, những người thày cô giáo, cả “dạy chữ và dạy nghề” là những chiến sĩ
trực tiếp, tiên phong. Đội ngũ đầu đàn này, cho đền nay, vẫn được coi là đội
ngũ trí thức, nghĩa là những người không trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật
chất đáp ứng nhu cầu trực tiếp về ăn, uống, ở, mặc, chữa bệnh… để tái sản xuất
ra sức lao động mà họ đã hao tổn trong quá trình nghiên cứu khoa học, giảng dạy
và đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Ngoài ra, họ còn cần phải tiêu dùng nhiều
loại sản phẩm vật chất khác và những dịch vụ cần thiết trong quá trình nghiên cứu,
giảng dạy, huấn luyện, học tập, đi lại, ứng xử với những người trong gia đình,
xã hội và giao lưu quốc tế … Tổng số những sản phẩm vật chất và những dịch vụ này,
do nhiều ngành kinh tế, dịch vụ của nền kinh tế quốc dân sản xuất ra, mà họ có
được do trao đổi trên thị trường bằng tổng số tiền lương của họ. Có thể nói, hầu
như tất cả các ngành kinh tế và dịch vụ của xã hội, trong mối quan hệ tác động
qua lại với nhau, như: nông nghiệp, công nghiệp, khai thác tài nguyên thiên
nhiên, giao thông vận tải, thương nghiệp, tài chính, tín dụng, ngân hàng… Tổng
số những ngành kinh tế và dịch vụ ấy, tổng những sản phẩm vật chất ấy cùng với
tổng số những mối quan hệ kinh tế ấy hợp thành toàn bộ đời sống kinh tế của xã
hội. Như vậy, sự tồn tại và phát triền của kinh tế là tiền đề quyết định sự tồn
tại và phát triển của đội ngũ những chiến sĩ tiên phong của văn hóa giáo dục. Bởi
vì, trược khi họ trở thành nhà văn hóa giáo dục – trước khi họ tồn tại với tư
cách là nhà văn hóa giáo dục đòi hỏi họ, trước hết, phải tồn tại với tư cách là
con người hiện thực, nghĩa là trước hết họ phải sống đã rồi mới có thể làm văn
hóa giáo dục được
[1] . C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 3, tr. 39 - 40
[2] . Hồ
Chí Minh: Toàn tập, S.đ.d, t. 10, tr. 59
[3] . C.Mác
và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb.Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 13, tr.15.
[6] Ở cả hai bản di chúc (năm
1965 và năm 1969) Bác đều viết các chuẩn mực này liền nhau (cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét