Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2016

VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI PHÁTTRIỂN VĂN HÓA

1-    Đời sống kinh tế là cơ sở hình thành đời sống văn hóa
          C Mác viết: “…tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”[1]. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của C Mác vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước…”[2] Cũng vì vậy, có thể khẳng định rằng: con người với tư cách “người”, được bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.

           Khái quát ở tầm rộng lớn nhất và cao nhất về lý luận, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định: Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Đây là một nguyên lý cơ bản trong hệ thống quan niệm duy vật biện chứng về lịch sử xã hội loài người của chủ nghĩa Mác – Lênin. Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội. Các yếu tố cơ bản cấu thành tồn tại xã hội bao gồm: phương thức sản xuất vật chất và các yếu tố thuộc về điều kiện tự nhiên – hoàn cảnh địa lý, khí hậu và dân cư. Các yếu tố đó tồn tại trong một thể thống nhất, thường xuyên tác động qua lại với nhau tạo thành những điều kiện sinh tồn và phát triển của xã hội. Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất, quyết định nhất. Nghĩa là toàn bộ đời sống kinh tế xã hội có vai trò quyết định thường xuyên đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội loài người. Khái niệm ý thức xã hội dung để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ảnh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định. Theo nội dung và lĩnh vực phản ảnh đời sống xã hội, ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau: ý thức chính trị, ý thức pháp quyền, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, ý thức khoa học. v.v…Trong đó, văn hóa được coi là nền tảng tinh thần của đới sống xã hội với nghĩa nó bao gồm ba lĩnh vực tinh thần cơ bản: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ và văn hóa đời sống gắn chặt với ba chức năng quy định đời sống tinh thần của xã hội:      
        Một là, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người.
        Hai là, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài
        Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người phấn đấu đạt tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện con người vươn tới “làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và làm chủ tự nhiên”
         Như vậy,văn hóa là một loại hình sản xuất đặc trưng của con người và xã hội loài người – loại hình xản xuất ra đời sống tinh thần.
        Tóm lại, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội – quá trình sản xuất vật chất của xã hội, đời sống kinh tế của xã hội (phương thức sản xuất vật chất xã hội) quyết định quá trình sản xuất đời sống tinh thần của xã hội, quyết định đời sống văn hóa của xã hội. Do đó, không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng và tâm lý của con người và xã hội ở bản thân nó, nghĩa là trong đầu óc con người, mà phải tìm trong đời sống sinh hoạt hiện thực vật chất của con người và thời đại vật chất của xã hội. Nói theo như C Mác là “ phải giải thích ý thức bằng những mâu thuẫn của đồi sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các lực lượng sản xuất xã hội với những quan hệ sản xuất xã hội”[3]. Quan điểm duy vật lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội, về nguồn gốc của đời sống văn hóa tinh thần xã hội chỉ ra rằng: tồn tại xã hội, mà trong đó chủ yếu là đời sống kinh tế của xã hội, quyết định đời sống tinh thần của xã hội, mà trong đó chủ yếu là đời sống văn hóa tinh thần xã hội, không phải chỉ bằng cách trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận, văn hóa tinh thần nào cũng phản ảnh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ khinh tế của thời đại, mà chỉ khi xét đến cùng thì mới thấy rõ vai trò quyết định của các quan hệ kinh tế đối với các quan hệ văn hóa.
          2 – Quá trình phát triển kinh tế là tiền đề của quá trình phát triển văn hóa
         Tất cả các yếu tố, các khâu, quá trình và các mối quan hệ (chủ công là ở phương thức sản xuất) trong phát triển kinh tế đều là những tiền đề, nguyên nhân sâu xa, có tính quyết định đến sự phát triển toàn diện đời sống văn hóa tinh thần.
         Từ lâu đã xuất hiện nhiều câu tổng kết: “có thực mới vực được đạo” và rõ nhất là câu “phú quý sinh lễ, nghĩa” hay “giầu lam sơn lắm kẻ tìm đến, khó giữa chợ chẳng có ai han”.v.v..  để phản ảnh chân lý phổ quát rất cụ thể rằng: đời sống kinh tế của một cá nhân, của một gia đình và xã hội có phát triển phồn thịnh, có bát ăn bát để, có giầu sang phú quý mới có đời sống văn hóa tinh thần toàn diện, phong phú về cả lý luận và học thuyết, giáo dục (văn hóa giáo dục)) cũng như những cách thức sinh hoạt về ăn, mặc, ở, đi lại, giao tiếp, ứng xử…đời thường (văn hóa đời sống) và cũng trên hai lĩnh vực văn hóa đó mà phát triển một loại hình văn hóa đặc biệt của xã hội loài người – văn hóa văn nghệ. Để làm sáng rõ vai trò của phát triển kinh tế đối với phát triển của văn hóa có thể bằng nhiều cách thức khác nhau: hoặc bằng cách phân tích những kết quả đạt được trong quá trình phát triển kinh tế trên tất cả các mặt, các quá trình, các mối quan hệ của nó. Hay bằng cách phân tích những điều kiện cần thiết mà bản thân sự phát triển của văn hóa đòi hỏi. Bài viết này được trình bầy chủ yếu theo cách thứ hai
          Văn hóa với tính cách là nền tinh thần của đời sống xã hội bao gồm ba nội dung cơ bản: văn hóa giáo dục, văn hóa văn nghệ và văn hóa đời sống gắn liền với việc thực hiện những chức năng của văn hóa như đã nói ở trên. Để văn hóa phát triển, nghĩa là đời sống văn hóa ở thời đại sau phải phong phú hơn và cao hơn đời sống văn hóa ở thời đại trước, đòi hỏi trước hết các bộ phận cấu thành của nó phải được phát triển đáp ứng được nhu cầu ngày càng nâng cao đời sống tinh thần của con người và xã hội. Những nhu cầu ấy, những đòi hỏi ấy rất đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ khó có thể thống kê hết được. Nhưng dù đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ thế nào cũng đều được thể hiện tập trung ở những yếu tố chung như: con người – chủ thể sáng tạo văn hóa và hưởng thụ văn hóa; tổng thể những giá trị vật chất (văn hóa vật thể) và những giá trị văn hóa tinh thần (văn hóa phi vật thể) – những điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triền văn hóa ở mỗi thời đại; các phương thức sử dụng những sản phẩm văn hóa của con người.v.v…
         Trong ba bộ phận, ba mảng lớn cấu thành đời sống văn hóa xã hội thì mảng văn hóa giáo dục giữ vai trò chủ công đối với sự tồn tại và phát triển văn hóa của mỗi quốc gia dân tộc. Chức năng chủ đạo của văn hóa giáo dục là bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp cho con người, là nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài, là bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lành mạnh, luôn hướng con người phấn đấu đạt tới cái chân, cái thiện, cái mỹ để không ngừng hoàn thiện con người và xã hội loài người. Văn hóa giáo dục là một mặt trận riêng có của con người, do con người và vì con người. lịch sử phát triển của các nền văn minh trên thế giới qua các thời đại, từ Cộng sản nguyên thủy đến Chiếm hữu nô lệ - Phong kiến - Dân chủ tư sản và ngày nay đang là những bước quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, đã chứng minh rằng: quy luật chung của sự phát triển xã hội nói chung, của sự phát triển văn hóa nói riêng là phát triển văn hóa giáo dục. Những quốc gia dân tộc nào có nền văn hóa giáo dục phát triển đều là những quốc gia hùng mạnh hơn so với những quốc gia có nền giáo dục kém phát triển. Chủ nghĩa cộng sản là tương lai của loài người vì chỉ có tiến lên xã hội cộng sản mới xây dựng và phát triển được một nền văn hóa giáo dục tiên tiến hơn các xã hội trước đó, vì chỉ có ở đó con người mới thực sự có tự do với nghĩa chân thực của nó là: “tất yếu được nhân thức” và nói theo như C Mác “sự phát triển tư do của mỗi người là điều kiện cho sự phát tự do của tất cả mọi người”. Nhận thức rõ vai trò to lớn đó của văn hóa giáo dục, chủ yếu là phát triển khoa học – kỹ thuật – công nghệ, nên hầu hết các nước trên thế giới ngày nay đều coi sự nghiệp phát triển, nâng cao văn hóa giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu
          Để phát triền và ngày càng nâng cao văn hóa giáo dục đòi hỏi phải đáp ứng được những điều kiện, tiền đề thiết yếu: Trước hết phải gia tăng và nâng cao trình độ đội ngũ những nhà nghiên cứu khoa họa, cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, cả khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng, cả lý luận khoa học và thực hành khoa học. Đồng thời phải phát triển đội ngũ những nhà giáo dục – đội ngũ những người thày, cô giáo để: một mặt, họ có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, giảng dạy những thành tựu khoa học, cả lý luận và thực hành, cho mọi thành viên trong cộng đồng xã hội. Chất lượng của đội ngũ những nhà nghiên cứu khoa học và giáo dục đào tạo càng được nâng cao thì năng lực trí tuệ và sáng tạo của quốc gia ngày càng lớn. Mặt khác, kết quả của quá trình ấy là trình độ nhận thức và tay nghề của lực lượng lao động cũng ngày càng được nâng cao, năng suất lao động ngày càng tăng, con người ngày càng thể hiện được vai trò là chủ nhân của giới tự nhiên và thống trị tự nhiên. Tuy nhiên, để có được những kết quả đó không thể chỉ bằng phát huy tài  trí  khép kín ở trong nước, mà còn là kết quả của quá trình giao lưu và hợp tác về văn hóa giáo dục với nhiều quốc gia trên thế giới, trược hết là với những quộc gia có trình độ tiên tiến về văn hóa giáo dục. Như vậy, văn hóa giáo dục chỉ được phát triển khi mà nó cuốn hút được tất cả mọi thành viên trong xã hội cùng tham gia bằng cách này hay cách khác. Trong đó, đội ngũ những nhà nghiên cứu khoa học, những người thày cô giáo, cả “dạy chữ và dạy nghề” là những chiến sĩ trực tiếp, tiên phong. Đội ngũ đầu đàn này, cho đền nay, vẫn được coi là đội ngũ trí thức, nghĩa là những người không trực tiếp sản xuất ra những sản phẩm vật chất đáp ứng nhu cầu trực tiếp về ăn, uống, ở, mặc, chữa bệnh… để tái sản xuất ra sức lao động mà họ đã hao tổn trong quá trình nghiên cứu khoa học, giảng dạy và đào tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Ngoài ra, họ còn cần phải tiêu dùng nhiều loại sản phẩm vật chất khác và những dịch vụ cần thiết trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy, huấn luyện, học tập, đi lại, ứng xử với những người trong gia đình, xã hội và giao lưu quốc tế … Tổng số những sản phẩm vật chất và những dịch vụ này, do nhiều ngành kinh tế, dịch vụ của nền kinh tế quốc dân sản xuất ra, mà họ có được do trao đổi trên thị trường bằng tổng số tiền lương của họ. Có thể nói, hầu như tất cả các ngành kinh tế và dịch vụ của xã hội, trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau, như: nông nghiệp, công nghiệp, khai thác tài nguyên thiên nhiên, giao thông vận tải, thương nghiệp, tài chính, tín dụng, ngân hàng… Tổng số những ngành kinh tế và dịch vụ ấy, tổng những sản phẩm vật chất ấy cùng với tổng số những mối quan hệ kinh tế ấy hợp thành toàn bộ đời sống kinh tế của xã hội. Như vậy, sự tồn tại và phát triền của kinh tế là tiền đề quyết định sự tồn tại và phát triển của đội ngũ những chiến sĩ tiên phong của văn hóa giáo dục. Bởi vì, trược khi họ trở thành nhà văn hóa giáo dục – trước khi họ tồn tại với tư cách là nhà văn hóa giáo dục đòi hỏi họ, trước hết, phải tồn tại với tư cách là con người hiện thực, nghĩa là trước hết họ phải sống đã rồi mới có thể làm văn hóa giáo dục được


[1] . C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,  Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t. 3, tr. 39 - 40
[2] . Hồ Chí Minh: Toàn tập, S.đ.d, t. 10, tr. 59
[3] . C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập,  Nxb.Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 13, tr.15.
thời xuân thu chiến quốc của Trung Quốc cổ đại) để cảnh tỉnh thái tử con vua Lê Lợi


[6] Ở cả hai bản di chúc (năm 1965 và năm 1969) Bác đều viết các chuẩn mực này liền nhau (cần kiệm liêm chính, chí công vô tư)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...