Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016

TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN VĂN CỪ TRONG CAO TRÀO ĐẤU TRANH CỦA MẶT TRẬN DÂN CHỦ (1936-1939)

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ trở thành đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng vào tháng 6 năm 1929. Đồng chí được Đảng phân công làm cán bộ chuyên môn của Đảng. Đồng chí đã góp nhiều công sức vào việc thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở nước ta (1930), vào công tác tuyên truyền và phát triển Đảng, xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng ở vùng mỏ than Đông - Bắc của Tổ quốc. Cuối năm 1930, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt và đầy đi Côn Đảo vào năm 1932. Trong tù, đồng chí đã đấu tranh bất khuất, không khoan nhượng đầu hàng, hơn nữa còn cùng với các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng... hướng dẫn các đồng chí khác học tập văn hoá, lý luận và trao đổi kinh nghiệm đấu tranh - "Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng". Năm 1936, nhờ phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở trong nước, nhờ cuộc đấu tranh mạnh mẽ của Mặt trận bình dân Pháp thắng lợi... thực dân Pháp buộc phải thả một số tù chính trị ở nước ta, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Cừ.

Ra tù, đồng chí Nguyễn Văn Cừ về Hà Nội tiếp tục công tác. Cuối năm 1936, trong cuộc họp Xứ uỷ Bắc Kỳ mở rộng, đồng chí được bầu vào Xứ uỷ. Cùng với Xứ uỷ, đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo công tác phát triển đảng viên và tổ chức cơ sở đảng, xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng. Đồng chí rất quan tâm chỉ đạo công tác tuyên truyền và sử dụng báo chí công khai ở Hà Nội. Là một cán bộ lãnh đạo trẻ, hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng chí coi báo chí là một mặt trận tuyên truyền của Đảng, tiến công kẻ thù... Do có sự chỉ đạo đúng đắn của Xứ uỷ và của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, báo chí của Đảng ở Hà Nội đã góp phần tích cực trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân cả nước.
Từ ngày 25/8 đến ngày 4/9 năm 1937, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được tham dự Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Trung ương tại Bà Điểm, Hóc Môn, tỉnh Gia Định. Hội nghị đã cử đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng.
Với trọng trách mới, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã đóng góp được nhiều công sức hơn cho Đảng, cho cách mạng nước ta. Đồng chí đã đặt trọng tâm công tác vào chỉ đạo vận động quần chúng, lãnh đạo chặt chẽ các phong trào yêu nước và tổ chức quần chúng. Đồng chí đặc biệt quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ cho Đảng và cho các tổ chức quần chúng cách mạng. Đồng chí luôn nhắc nhở các cấp bộ đảng phải chú ý phát triển đảng viên trong công nhân và các thành phần khác trên tinh thần đảm bảo đúng Điều lệ, chống chủ nghĩa hữu khuynh, lơ là, mất cảnh giác, nhưng cũng phải khắc phục khuynh hướng thành phần chủ nghĩa, hẹp hòi, cô độc trong công tác xây dựng Đảng.
Ngay cả trong lúc phong trào cách mạng thuận lợi, đang lên, đồng chí Nguyễn Văn Cừ vẫn không quyên dự kiến trước những khó khăn sắp tới. Vì vậy đồng chí đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo và bố trí cán bộ, đảng viên cho công tác hoạt động bí mật, lo công tác tài chính, lo củng cố và bảo đảm bí mật những đường dây liên lạc cần phải bí mật... để đề phòng tình hình xấu sẽ xẩy ra. Nhờ những chủ trương đúng đắn đó cho nên sau này (cuối 1939) phong trào Mặt trận dân chủ bị địch đàn áp mạnh những cũng đỡ bị tổn thất.
Riêng về công tác Mặt trận, thời gian này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã có nhiều cống hiến to lớn trong việc tuyên truyền và thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Đông Dương (3/1937). Điểm mới trong công tác Mặt trận lúc này là phát triển các hình thức đấu tranh, có kết hợp công khai, bản công khai với bí mật; tùy theo điều kiện cho phép mà có thể thành lập Mặt trận từ trên xuống hay từ dưới lên; thành phần mặt trận phải hết sức rộng rãi, không những bao gồm đại đa số các tầng lớp nhân dân, các đảng phái và các tổ chức xã hội trong nước, mà còn phải thu hút cả ngoại kiều, trước hết là những Pháp yêu chuộng hoà bình, tiến bộ vào Mặt trận. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí cũng tích cực chỉ đạo ở miền Bắc công tác Đảng tham gia tuyển cử vào các Viện dân biểu, Hội đồng quản hạt, Hội đồng thành phố. Đây là công việc rất mới của Đảng lợi dụng đấu tranh nghị trường để tuyên truyền công khai cho Đảng, đem lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Kết quả rất khả quan: hầu hết những ứng cử viên được Đảng vận động đã trúng cử, một số được giữ những chức vụ quan trọng như Viện trưởng, Viện phó, Chánh thư ký, Uỷ viên thường trực... Thắng lợi bước đầu trong đấu tranh nghị trường đã làm cho uy tín của Đảng được nâng cao hơn.
Trong suốt năm 1937, phong trào đấu tranh ở miền Bắc cũng như trong cả nước, đều cao hơn các năm trước. Điển hình là những cuộc bãi công của công nhân nhà máy sợi Nam Định, mỏ than Vàng Danh... Phong trào đấu tranh của nông dân cũng tăng lên mạnh mẽ, thu hút hàng vạn người. Đặc biệt là nông dân đều hưởng ứng các cuộc đấu tranh của công nhân và công nhân cũng tích cực hưởng ứng các cuộc đấu tranh của nông dân. Hai giai cấp chủ lực của cách mạng đang ngày càng gắn bó, sát cánh bên nhau, chuẩn bị lực lượng to lớn cho cách mạng ở những giai đoạn sau này.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng, họp từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 3 năm 1938, ở làng Tân Thới Nhất (Hóc Môn, Gia Định), đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng thay đồng chí Hà Huy Tập. Năm ấy đồng chí mới 26 tuổi, là một trong những đồng chí Tổng Bí thư trẻ nhất của Đảng ta. Trên cương vị mới, đồng chí đã cống hiến toàn bộ sức lực và tài trí cho Đảng, đưa Đảng ta và phong trào cách mạng nước ta phát triển lên một tầm cao mới.
Trong lãnh đạo toàn diện sự phát triển của Đảng và cách mạng nước ta, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đặc biệt quan tâm tới hai công tác trung tâm của thời kỳ này là lãnh đạo thành lập Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận dân chủ) và nâng cao năng lực lãnh đạo cùng với sức chiến đấu của Đảng, tập trung vào công việc chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và tả khuynh trong Đảng, chống bọn Tờ - rốt - kít...
Về lãnh đạo công tác Mặt trận: đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng Ban Chấp hành Trung ương phân tích rõ: trong hai năm (1936-1937), công tác Mặt trận mới chỉ đặt cơ sở cho việc thành lập Mặt trận dân chủ: hình thành xu hướng phối hợp hành động chung của các đảng phái và các tầng lớp nhân dân. Vì vậy những năm tới (1938-1939), theo đồng chí Nguyễn Nguyễn Văn Cừ, "cần đưa hết toàn lực của Đảng, dùng hết các phương pháp để lan rộng các xu hướng, phát triển các mầm mống thành một lực lượng hành động mạnh mẽ". Theo tinh thần ấy, ở Bắc Kỳ cần tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của Đảng xã hội, tiếp tục củng cố Mặt trận bình dân, đẩy mạnh công tác vận động các tầng lớp nhân dân và phối hợp hành động chung. Ở Trung Kỳ đẩy mạnh lôi kéo phái dân chủ, nhất là lực lượng dân chủ tiến bộ còn đứng trung lập, các hoạt động khác cũng như ở Bắc Kỳ. Ở Nam Kỳ phải thúc đẩy Đảng xã hội đề ra các chương trình đấu tranh cải cách dân chủ... Cả nước phải kéo hết các phía cải lương tham gia Mặt trận dân chủ. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ và Ban Chấp hành Trung ương kết luận: "Tóm lại, dùng hết phương pháp làm thế nào cho thực hiện được Mặt trận dân chủ, ấy là công cuộc của Đảng ta trong lúc này" (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr.351) và cũng là trọng tâm trong công tác lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Văn Cừ.
Khuyết điểm lớn nhất trong lãnh đạo công tác Mặt trận là chưa kịp thời uốn nắn khuynh hướng quá "say sưa" với những thắng lợi cục bộ của hoạt động công khai mà nới lỏng công tác bí mật. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã nghiêm túc kiểm điểm khuyết điểm này trong tác phẩm "Tự chỉ trích" của mình.
Về lãnh đạo công tác chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và tả khuynh, nhất là chống bọn Tờ-rốt-kít: Thời gian này, bọn Tờ-rốt-kít hoạt động mạnh ở một số nơi, nhất là ở Sài Gòn. Bọn này khoác áo mác xít để lừa bịp và lôi kéo quần chúng, phá hoại cách mạng. Chúng đả kích đường lối của Đảng ta về Mặt trận: vu cho Đảng đã rời bỏ lập trường giai cấp đi theo chủ nghĩa cải lương, đề ra những khẩu hiệu "cực tả" nhằm lôi kéo công nhân và thanh niên... Tình hình đó gây nên sự tranh luận trong Đảng: Một số đảng viên viết bài giải thích lệch lạc, thậm chí công kích một cách sai lầm đường lối, chủ trương của Đảng. Khối đoàn kết nhất trí về tư tưởng và tổ chức của Đảng bị rạn nứt... Yêu cầu của Đảng và cách mạng lúc này là phải lột mặt nạ và cô lập bọn Tờ-rốt-kít; tiến hành một cuộc vận động tự phê bình và phê bình trong Đảng, nghiêm khắc phê phán những khuynh hướng thoả hiệp vô nguyên tắc với bọn Tờ - rốt - kít và khuynh hướng quá "say sưa" với hoạt động công khai... Để thực hiện những yêu cầu cấp bách này, vào tháng 7 năm 1939, với bút danh Trí Cường, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ trích.
Trong tác phẩm này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã phân tích rõ bản chất và vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ, tổng kết kinh nghiệm tuyên truyền, tổ chức xây dựng Mặt trận dân chủ giai đoạn 1936-1939. "Tự chỉ trích" không những là một tác phẩm chỉ đạo, uốn nắn những sai lầm lệch lạc trước mắt, mà còn là một tác phẩm lý luận xuất sắc của Đảng ta lúc bấy giờ.

Sau khi được phát hành, Tự chỉ trích đã được học tập trong toàn Đảng. Các chi bộ tự thực hiện phê bình và tự phê bình. Nhờ vậy, một số nhận thức sai lầm đã được uốn nắn, tổ chức đảng được củng cố. Những rạn nứt trong tư tưởng và hành động của Đảng dần dần được hàn gắn. Sự đoàn kết trong Đảng đã cho Đảng đủ sức mạnh để đối phó với tình hình thực tế ngày càng có chiều hướng xấu đi do chiến tranh đế quốc đang đến gần, tạo ra những tiền đề cho bước chuyển hướng chiến lược của cách mạng nước ta ở giai đoạn sau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...