Đồng chí Nguyễn Văn Cừ trở thành đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng
vào tháng 6 năm 1929. Đồng chí được Đảng phân công làm cán bộ chuyên môn của
Đảng. Đồng chí đã góp nhiều công sức vào việc thành lập một Đảng Cộng sản duy
nhất ở nước ta (1930), vào công tác tuyên truyền và phát triển Đảng, xây dựng
và phát triển các tổ chức quần chúng ở vùng mỏ than Đông - Bắc của Tổ quốc.
Cuối năm 1930, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt và đầy đi Côn Đảo vào năm
1932. Trong tù, đồng chí đã đấu tranh bất khuất, không khoan nhượng đầu hàng,
hơn nữa còn cùng với các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng... hướng dẫn các đồng
chí khác học tập văn hoá, lý luận và trao đổi kinh nghiệm đấu tranh -
"Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng". Năm 1936, nhờ phong
trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở trong nước, nhờ cuộc đấu tranh mạnh mẽ của
Mặt trận bình dân Pháp thắng lợi... thực dân Pháp buộc phải thả một số tù chính
trị ở nước ta, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Cừ.
Ra tù, đồng chí Nguyễn Văn Cừ về Hà Nội tiếp tục công tác. Cuối năm 1936,
trong cuộc họp Xứ uỷ Bắc Kỳ mở rộng, đồng chí được bầu vào Xứ uỷ. Cùng với Xứ
uỷ, đồng chí đã trực tiếp chỉ đạo công tác phát triển đảng viên và tổ chức cơ
sở đảng, xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng. Đồng chí rất quan tâm
chỉ đạo công tác tuyên truyền và sử dụng báo chí công khai ở Hà Nội. Là một cán
bộ lãnh đạo trẻ, hiểu biết sâu sắc chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng chí coi báo chí
là một mặt trận tuyên truyền của Đảng, tiến công kẻ thù... Do có sự chỉ đạo
đúng đắn của Xứ uỷ và của đồng chí Nguyễn Văn Cừ, báo chí của Đảng ở Hà Nội đã
góp phần tích cực trong cuộc đấu tranh chung của nhân dân cả nước.
Từ ngày 25/8 đến ngày 4/9 năm 1937, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được tham dự
Hội nghị mở rộng Ban Chấp hành Trung ương tại Bà Điểm, Hóc Môn, tỉnh Gia Định.
Hội nghị đã cử đồng chí Nguyễn Văn Cừ vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng.
Với trọng trách mới, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã đóng góp được nhiều công
sức hơn cho Đảng, cho cách mạng nước ta. Đồng chí đã đặt trọng tâm công tác vào
chỉ đạo vận động quần chúng, lãnh đạo chặt chẽ các phong trào yêu nước và tổ
chức quần chúng. Đồng chí đặc biệt quan tâm chỉ đạo công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ cho Đảng và cho các tổ chức quần chúng cách mạng. Đồng chí
luôn nhắc nhở các cấp bộ đảng phải chú ý phát triển đảng viên trong công nhân
và các thành phần khác trên tinh thần đảm bảo đúng Điều lệ, chống chủ nghĩa hữu
khuynh, lơ là, mất cảnh giác, nhưng cũng phải khắc phục khuynh hướng thành phần
chủ nghĩa, hẹp hòi, cô độc trong công tác xây dựng Đảng.
Ngay cả trong lúc phong trào cách mạng thuận lợi, đang lên, đồng chí
Nguyễn Văn Cừ vẫn không quyên dự kiến trước những khó khăn sắp tới. Vì vậy đồng
chí đặc biệt quan tâm tới việc đào tạo và bố trí cán bộ, đảng viên cho công tác
hoạt động bí mật, lo công tác tài chính, lo củng cố và bảo đảm bí mật những
đường dây liên lạc cần phải bí mật... để đề phòng tình hình xấu sẽ xẩy ra. Nhờ
những chủ trương đúng đắn đó cho nên sau này (cuối 1939) phong trào Mặt trận
dân chủ bị địch đàn áp mạnh những cũng đỡ bị tổn thất.
Riêng về công tác Mặt trận, thời gian này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã có
nhiều cống hiến to lớn trong việc tuyên truyền và thành lập Mặt trận thống nhất
nhân dân Đông Dương (3/1937). Điểm mới trong công tác Mặt trận lúc này là phát
triển các hình thức đấu tranh, có kết hợp công khai, bản công khai với bí mật;
tùy theo điều kiện cho phép mà có thể thành lập Mặt trận từ trên xuống hay từ
dưới lên; thành phần mặt trận phải hết sức rộng rãi, không những bao gồm đại đa
số các tầng lớp nhân dân, các đảng phái và các tổ chức xã hội trong nước, mà
còn phải thu hút cả ngoại kiều, trước hết là những Pháp yêu chuộng hoà bình,
tiến bộ vào Mặt trận. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí cũng
tích cực chỉ đạo ở miền Bắc công tác Đảng tham gia tuyển cử vào các Viện dân
biểu, Hội đồng quản hạt, Hội đồng thành phố. Đây là công việc rất mới của Đảng
lợi dụng đấu tranh nghị trường để tuyên truyền công khai cho Đảng, đem lại lợi
ích thiết thực cho nhân dân. Kết quả rất khả quan: hầu hết những ứng cử viên
được Đảng vận động đã trúng cử, một số được giữ những chức vụ quan trọng như
Viện trưởng, Viện phó, Chánh thư ký, Uỷ viên thường trực... Thắng lợi bước đầu
trong đấu tranh nghị trường đã làm cho uy tín của Đảng được nâng cao hơn.
Trong suốt năm 1937, phong trào đấu tranh ở miền Bắc cũng như trong cả
nước, đều cao hơn các năm trước. Điển hình là những cuộc bãi công của công nhân
nhà máy sợi Nam
Định, mỏ than Vàng Danh... Phong trào đấu tranh của nông dân cũng tăng lên mạnh
mẽ, thu hút hàng vạn người. Đặc biệt là nông dân đều hưởng ứng các cuộc đấu
tranh của công nhân và công nhân cũng tích cực hưởng ứng các cuộc đấu tranh của
nông dân. Hai giai cấp chủ lực của cách mạng đang ngày càng gắn bó, sát cánh
bên nhau, chuẩn bị lực lượng to lớn cho cách mạng ở những giai đoạn sau này.
Tại Hội nghị Trung ương Đảng mở rộng, họp từ ngày 29 đến ngày 30 tháng 3
năm 1938, ở làng Tân Thới Nhất (Hóc Môn, Gia Định), đồng chí Nguyễn Văn Cừ được
bầu làm Tổng Bí thư của Đảng thay đồng chí Hà Huy Tập. Năm ấy đồng chí mới 26
tuổi, là một trong những đồng chí Tổng Bí thư trẻ nhất của Đảng ta. Trên cương
vị mới, đồng chí đã cống hiến toàn bộ sức lực và tài trí cho Đảng, đưa Đảng ta
và phong trào cách mạng nước ta phát triển lên một tầm cao mới.
Trong lãnh đạo toàn diện sự phát triển của Đảng và cách mạng nước ta,
đồng chí Nguyễn Văn Cừ đặc biệt quan tâm tới hai công tác trung tâm của thời kỳ
này là lãnh đạo thành lập Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương (gọi tắt là
Mặt trận dân chủ) và nâng cao năng lực lãnh đạo cùng với sức chiến đấu của
Đảng, tập trung vào công việc chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và tả khuynh
trong Đảng, chống bọn Tờ - rốt - kít...
Về lãnh đạo công tác Mặt trận: đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng Ban Chấp hành
Trung ương phân tích rõ: trong hai năm (1936-1937), công tác Mặt trận mới chỉ
đặt cơ sở cho việc thành lập Mặt trận dân chủ: hình thành xu hướng phối hợp
hành động chung của các đảng phái và các tầng lớp nhân dân. Vì vậy những năm
tới (1938-1939), theo đồng chí Nguyễn Nguyễn Văn Cừ, "cần đưa hết toàn lực
của Đảng, dùng hết các phương pháp để lan rộng các xu hướng, phát triển các mầm
mống thành một lực lượng hành động mạnh mẽ". Theo tinh thần ấy, ở Bắc Kỳ
cần tạo điều kiện đẩy mạnh hoạt động của Đảng xã hội, tiếp tục củng cố Mặt trận
bình dân, đẩy mạnh công tác vận động các tầng lớp nhân dân và phối hợp hành
động chung. Ở Trung Kỳ đẩy mạnh lôi kéo phái dân chủ, nhất là lực lượng dân chủ
tiến bộ còn đứng trung lập, các hoạt động khác cũng như ở Bắc Kỳ. Ở Nam Kỳ phải
thúc đẩy Đảng xã hội đề ra các chương trình đấu tranh cải cách dân chủ... Cả
nước phải kéo hết các phía cải lương tham gia Mặt trận dân chủ. Đồng chí Nguyễn
Văn Cừ và Ban Chấp hành Trung ương kết luận: "Tóm lại, dùng hết phương
pháp làm thế nào cho thực hiện được Mặt trận dân chủ, ấy là công cuộc của Đảng
ta trong lúc này" (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr.351) và cũng là trọng
tâm trong công tác lãnh đạo của đồng chí Nguyễn Văn Cừ.
Khuyết điểm lớn nhất trong lãnh đạo công tác Mặt trận là chưa kịp thời uốn nắn khuynh hướng quá "say sưa" với
những thắng lợi cục bộ của hoạt động công khai mà nới lỏng công tác bí mật.
Đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã nghiêm túc kiểm điểm khuyết điểm này trong tác phẩm
"Tự chỉ trích" của mình.
Về lãnh đạo công tác chống chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh và tả khuynh, nhất
là chống bọn Tờ-rốt-kít: Thời gian này, bọn Tờ-rốt-kít hoạt động mạnh ở một số
nơi, nhất là ở Sài Gòn. Bọn này khoác áo mác xít để lừa bịp và lôi kéo quần
chúng, phá hoại cách mạng. Chúng đả kích đường lối của Đảng ta về Mặt trận: vu
cho Đảng đã rời bỏ lập trường giai cấp đi theo chủ nghĩa cải lương, đề ra những
khẩu hiệu "cực tả" nhằm lôi kéo công nhân và thanh niên... Tình hình
đó gây nên sự tranh luận trong Đảng: Một số đảng viên viết bài giải thích lệch
lạc, thậm chí công kích một cách sai lầm đường lối, chủ trương của Đảng. Khối
đoàn kết nhất trí về tư tưởng và tổ chức của Đảng bị rạn nứt... Yêu cầu của
Đảng và cách mạng lúc này là phải lột mặt nạ và cô lập bọn Tờ-rốt-kít; tiến
hành một cuộc vận động tự phê bình và phê bình trong Đảng, nghiêm khắc phê phán
những khuynh hướng thoả hiệp vô nguyên tắc với bọn Tờ - rốt - kít và khuynh
hướng quá "say sưa" với hoạt động công khai... Để thực hiện những yêu
cầu cấp bách này, vào tháng 7 năm 1939, với bút danh Trí Cường, đồng chí Nguyễn
Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ trích.
Trong tác phẩm này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã phân tích rõ bản chất và
vai trò to lớn của nguyên tắc tập trung dân chủ, tổng kết kinh nghiệm tuyên
truyền, tổ chức xây dựng Mặt trận dân chủ giai đoạn 1936-1939. "Tự chỉ
trích" không những là một tác phẩm chỉ đạo, uốn nắn những sai lầm lệch lạc
trước mắt, mà còn là một tác phẩm lý luận xuất sắc của Đảng ta lúc bấy giờ.
Sau khi được phát hành, Tự chỉ
trích đã được học tập trong toàn Đảng. Các chi bộ tự thực hiện phê bình và
tự phê bình. Nhờ vậy, một số nhận thức sai lầm đã được uốn nắn, tổ chức đảng
được củng cố. Những rạn nứt trong tư tưởng và hành động của Đảng dần dần được
hàn gắn. Sự đoàn kết trong Đảng đã cho Đảng đủ sức mạnh để đối phó với tình
hình thực tế ngày càng có chiều hướng xấu đi do chiến tranh đế quốc đang đến
gần, tạo ra những tiền đề cho bước chuyển hướng chiến lược của cách mạng nước
ta ở giai đoạn sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét