Thứ Hai, 17 tháng 10, 2016

Vấn đề “Tiến bộ của nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta hiện nay

Vấn đề Tiến bộ nhân loại (Tiến bộ của nhân loại) không phải là vấn đề mới nhưng lại luôn luôn là vấn đề thời sự của mỗi thời đại kế tiếp nhau trong lịch sử. Vấn đề này có ý nghĩa lớn trong thời đại hiện nay nói chung và đối với nước ta nói riêng.
          Có nhiều cách thức nghiên cứu khác nhau phụ thuộc vào mục đích phát triển rộng hẹp hay riêng từng lĩnh vực kinh tế hay chính trị, văn hoá hay con người, quốc gia hay quốc tế, dân tộc hay thời đại v.v… Vì vậy không nên quan niệm theo cách nói là “cách tiếp cận”. “Tiếp cận” theo nghĩa thực là tiếp gần tới một sự vật, hiện tượng nào đó. Do đó tiếp cận chỉ là bước chuẩn bị để đi sâu vào nghiên cứu, mổ xẻ sự vật, chứ chưa cho phép hiểu được bản chất sự vật, hiện tượng. Vì vậy chỉ bằng “cách tiếp cận” mà đặt ra yêu cầu, phải làm rõ “vấn đề tiến bộ nhân loại” thì chỉ là ảo tưởng, chủ quan duy ý chí. Để làm rõ được khái niệm “tiên bộ nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải nghiên cứu toàn diện tư tưởng của Người và những hoạt động thực tiễn của Người để thực hiện tiến bộ nhân loại theo tư tưởng đó.

          Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng sáng tạo nhiều cách thức – phương pháp làm rõ vấn đề tiến bộ và tiến bộ nhân loại trong lịch sử trong đó có hai phương pháp chung, cơ bản: Một là phương pháp nghiên cứu toàn bộ đời sống văn hoá nhân loại trong quá trình lịch sử tự nhiên mà trong đó tập trung vào công cụ sản xuất để từ đó lan sang các mặt khác của đời sống xã hội hình thành phương pháp nghiên cứu lịch sử qua các nền văn minh. Ưu điểm của phương pháp này là khá toàn diện nhưng chưa làm rõ được động lực, quy luật chi phối sự tiến bộ của nhân loại qua các nền văn minh. Ở phương pháp này người ta chỉ thấy liệt kê các sự kiện lịch sử, các kết quả và thành tựu của văn hoá đã đạt được chứ ít quan tâm tới nguyên nhân sâu xa bên trong của những sự biến lịch sử, chưa trả lời được một cách sâu sắc câu hỏi: Vì sao nhân loại nói chung luôn tiến bộ? Vì sao có dân tộc tiến bộ nhanh, có dân tộc tiến bộ chậm và lại có dân tộc hiện nay vẫn ở vào thời kỳ lịch sử xa xưa? V.v..
          Hai là, để kế thừa những ưu điểm và khắc phục những nhược điểm của phương pháp nghiên cứu các nền văn minh, chủ nghĩa Mác – Lênin đã đề xuất và thực hiện phương pháp nghiên cứu các kết cấu bên trong và quan hệ nội tại của xã hội loài người trong lịch sử. Đó là đi từ kết cấu kinh tế cùng các quan hệ kinh tế tới kết cấu và quan hệ chính trị, văn hoá (theo nghĩa hẹp), xã hội v.v… Các phương pháp nghiên cứu này gọi chung là các phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bằng những phương pháp khoa học và cách mạng này, lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã phát hiện ra vai trò quyết định của quảng đại quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử; rằng họ là những người sáng tạo ra lịch sử bằng chính những sản phẩm của lịch sử; rằng con người tự làm ra lịch sử của mình chứ không phải thần thánh, ma quỷ siêu nhiên; rằng quy luật số một quyết định sự tiến bộ nhân loại, qua các nền văn minh, là quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; rằng khi xã hội loài người bị phân chia thành giai cấp, do chế độ tư hữu xuất hiện, thì quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất được biểu hiện trực tiếp thành quy luật đấu tranh giai cấp – nhìn chung “Lịch sử của xã hội loài người là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp” – đấu tranh giai cấp là động lực phát triển – tiến bộ của xã hội có giai cấp, rằng sự phù hợp của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng cũng là quy luật chung góp phần quyết định sự tiến bộ của nhân loại v.v… Tuân theo những quy luật này trong sự vận động, phát triển của xã hội loài người là cơ sở khoa học để chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định rằng “lịch sử của xã hội loài người đã dần dần tiến bộ qua các thời kỳ từ thấp đến cao: cộng sản nguyên thuỷ è chiếm hữu nô lệ è phong kiến è tư bản è xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa v.v… Như vậy, tiến bộ nhân loại thực chất là tiến bộ của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử kế tiếp nhau từ thấp đến cao.
          Tóm lại bằng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khái quát bản chất của tiến bộ nhân loại: Tiến bộ nhân loại – tiến bộ xã hội là quá trình phát triển của toàn bộ đời sống xã hội qua các giai đoạn lịch sử (các hình thái kinh tế - xã hội) kế tiếp nhau, mà giai đoạn sau bao giờ cũng cao hơn về trình độ phát triển so với giai đoạn trước, do các quy xã hội chi phối thông qua hoạt động của con người và các thế hệ loài người.
          Chủ nghĩa Mác – Lênin chẳng những khái quát được bản chất của tiến bộ nhân loại mà từ đó còn chỉ rõ những tiêu chuẩn cơ bản của tiến bộ nhân loại. Đó là:
          1. Tiến bộ nhân loại là tiến bộ của toàn bộ đời sống xã hội loài người như một hệ thống toàn vẹn và hoàn chỉnh, phát triển từ thấp đến cao. Toàn bộ đời sống xã hội là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều hệ thống con như gia đình, nhà nước, khoa học, nghệ thuật v.v… Các hệ thống con thường phát triển không đều. Nếu chỉ căn cứ vào một hệ thống con nào đó để xem xét thì không thể kết luận được là xã hội đó tiến bộ hay suy thoái. Vì vậy cần phải xem xét sự tiến bộ của tất cả các hệ thống con, nghĩa là phải xem xét sự tiến triển của tất cả các hệ thống con, nghĩa là phải xem xét xã hội trong tính toàn vẹn của nó trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, nghệ thuật… sao cho mang lại những giá trị vật chất và tinh thần cho sự phát triển toàn diện con người ngày một tốt hơn, cao hơn. Với phương pháp luận như vậy thì tiêu chuẩn chung nhất để xem xét sự tiến bộ xã hội chỉ có thể là phương thức sản xuất. Bởi vì phương thức sản xuất là yếu tố quyết định sự vận động và phát triển của toàn bộ đời sống xã hội. Theo đó thì quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản số một trong sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
          2. Theo C.Mác: “Không nên hiểu khái niệm tiến bộ xã hội với một sự trìu tượng hoá tầm thường”, mà phải hiểu tiến bộ xã hội trong quá trình “phát triển sự phong phú của bản tính con người với tư cách là mục đích tự thân”[1]. Theo đó thì tiêu chuẩn tiếp theo của tiến bộ nhân loại là ở mức độ giải phóng và phát huy được sức mạnh và năng lực sáng tạo của con người. Nghĩa là xã hội nào thực hiện được yêu cầu đó tốt hơn thì được coi là tiến bộ hơn.
          Tiêu chuẩn có tính mục đích cụ thể này được phản ánh ở các thành tựu của tăng trưởng kinh tế, của phát triển khoa học – kỹ thuật (công nghệ cao hay thấp, tiên tiến hay lạc hậu), của các nguyên tắc quản lý, của trạng thái chính trị - xã hội, mức độ phát huy dân chủ, ở trình độ học vấn, ở điều kiện đảm bảo sức khoẻ, ở ý thức đạo đức lối sống, ở kỷ luật lao động, tôn trọng pháp luật và thế giới quan v.v…
          Trên cơ sở vận dụng phương pháp nghiên cứu duy vật lịch sử và những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến bộ nhân loại (tiến bộ xã hội) một cách sáng tạo cho phù hợp với điều kiện lịch sử của cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh đã đề xuất hệ thống những quan điểm về tiến bộ và tiến bộ nhân loại một cách cụ thể và sâu sắc:
          Trước hết, trong quan niệm của Hồ Chí Minh, tiến bộ được xem là một sự phát triển, không có phát triển thì không có tiến bộ. Ở bài “vấn đề dân bản xứ”, đăng trên báo L.Humanité ngày 2 – 8 – 1919, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát triển”[2]. Vấn đề là phát triển như thế nào? Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một cách rất cụ thể, dễ hiểu, dễ làm. Người viết ở “Mục đọc sách” (Tài liệu chữ hán trong bản thảo “Nhật ký trong tù”): “Một vật dùng như hai vật. Một người làm việc của hai người. Một ngày làm việc của hai ngày. Nói ít, bắt đầu bằng hành động. Tiến bộ”[3]. Như vậy, tiến bộ ở đây là tăng năng suất lao động. Hay ở “Bài nói tại Hội nghị mở rộng của tỉnh uỷ Hà Đông” ngày 22 – 12 – 1959, Người nói: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thu hoạch phải ngày càng tăng”[4], nghĩa là kết quả trong lao động sản xuất ngày sau phải cao hơn ngày trước, năm sau phải cao hơn năm trước…
          Tiến bộ được Hồ Chí Minh đề cập rất toàn diện: có con người, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ… tiến bộ, có tập thể, cơ quan, đơn vị, xí nghiệp, hợp tác xã, cộng đồng, dân tộc, đất nước, chế độ tiến bộ; có sửa đổi lối làm việc, sửa đổi cách lãnh đạo… sao cho có kết quả cao – tiến bộ; có con đường, xu hướng, phương pháp, tư tưởng, đạo đức, lối sống… tiến bộ; có vũ khí, công cụ, máy móc… tiến bộ; có thi đua, sửa chữa khuyết điểm, đoàn kết… tiến bộ; có học tập, bài viết, công trình, bản nhạc, bài hát… tiến bộ v.v… Tất cả các mặt, các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có phát triển theo thời gian hoặc là tăng năng suất lao động, hoặc là ngày này, tháng này, năm này… phải có kết quả cao hơn ngày trước, tháng trước, năm trước… đều được coi là có tiến bộ trong công tác cách mạng cũng như trong sinh hoạt đời thường.
          Từ việc mô tả, phân tích tiến bộ rất toàn diện và cụ thể như vậy, Hồ Chí Minh đã khái quát tiến bộ nhân loại – tiến bộ xã hội theo tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin.
          Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh quá trình phát triển khách quan của nhân loại đã trải qua các chế độ xã hội: cộng sản nguyên thuỷ è chiếm hữu nô lệ è phong kiến è tư bản rồi tất yếu lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trong đó chế độ sau tiến bộ hơn chế độ trước. Ví dụ: Sau khi phân tích “Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp (1789), Người khẳng định: “Thực chất nó quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ tư bản, mà nổi bật nhất là quyền tư hữu. So với chế độ phong kiến chuyên chế thì đây là một bước tiến bộ”[5]. Trong tác phẩm “Đường Kách Mệnh” Hồ Chí Minh đã chỉ rõ sự tiến bộ vượt bậc của xã hội chủ nghĩa so với chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong bài “Hoan hô thắng lợi vẻ vang của khoa học Liên Xô vĩ đại”, Hồ Chí Minh viết: “Cách đây độ 100 năm, Các Mác đã nói: “Người cộng sản hiểu biết thiên nhiên để buộc thiên nhiên phục vụ hạnh phúc loài người và hiểu biết xã hội để cải tạo xã hội cũ xấu xa thành một xã hội mới tốt đẹp, một xã hội cộng sản. Lời nói ấy nay đã thực hiện dần dần ở các nước xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô vĩ đại”[6]. Chỉ nói riêng về khoa học tên lửa thì: “các người khoa học Mỹ đã phải nhận ra rằng: So với khoa học tên lửa Liên Xô thì Mỹ đã lạc hậu năm năm”[7].
          Tiến bộ nhân loại được Hồ Chí Minh khai thác ở nhiều cách nói với những cụm từ đồng nghĩa như: “Tiến bộ của nhân loại”, “Tiến bộ xã hội”, “Thế giới tiến bộ”, “Loài người tiến bộ” hay “các lực lượng hoà bình và tiến bộ trên thế giới” v.v… Tiến bộ nhân loại được biểu hiện cụ thể ở quá trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi nước cụ thể theo thời gian, thường là kết quả của năm sau, thời kỳ sau cao hơn năm trước, thời kỳ trước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định sử tiến bộ của các nước khi xoá bỏ chế độ phong kiến tiến lên chế độ tư bản mà điển hình là nước Nhật, Pháp, Anh, Mỹ v.v… Người đặc biệt ca ngợi sự tiến bộ của Liên Xô, Trung Quóc, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari… khi xoá bỏ chế độ tư bản tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây chính là sự tiến bộ của nhân loại trong quá trình phát triển tự nhiên qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao, mà hình thái sau bao giờ cũng tiến bộ hơn các hình thái trước.
          Đồng thời với phân tích sự tiến bộ nhân loại được biểu hiện ở các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã phân tích cụ thể sự tiến bộ xã hội ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội như: Chính trị, kinh tế, văn hoá, vật chất, tinh thần[8] v.v… Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 18 – 12 – 1946, Người đã gửi công hàm cho chính phủ các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Vô, Vương Quốc Anh: “Nước cộng hoà Việt Nam mới… đã được thành lập một cách hợp pháp là một yếu tố của hoà bình và tiến bộ trong việc xây dựng lại thế giới”[9].



[1] C.Mác, các học thuyết về giá trị thặng dư, phần II, Nxb Sự thật, Hà Nội – 1969, tr 158.
[2] Hồ Chí Minh toàn tập, nxb CTQG, Hà Nội – 2000, Tập 1, tr 9.
[3] Sđd, tập 2, tr 430.
[4] Sđd, tập 9, tr 565.
[5] Sđd, tập 1, tr 490.
[6] Sđd, tập 9, tr 535.
[7] Sđd, tập 9, tr 534.
[8] Sđd, tập 5, tr 441.
[9] Sđd, tập 4, tr 180.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...