Vấn
đề Tiến bộ nhân loại (Tiến bộ của nhân loại) không phải là vấn đề mới nhưng lại
luôn luôn là vấn đề thời sự của mỗi thời đại kế tiếp nhau trong lịch sử. Vấn đề
này có ý nghĩa lớn trong thời đại hiện nay nói chung và đối với nước ta nói
riêng.
Có nhiều cách thức nghiên cứu khác
nhau phụ thuộc vào mục đích phát triển rộng hẹp hay riêng từng lĩnh vực kinh tế
hay chính trị, văn hoá hay con người, quốc gia hay quốc tế, dân tộc hay thời đại
v.v… Vì vậy không nên quan niệm theo cách nói là “cách tiếp cận”. “Tiếp cận”
theo nghĩa thực là tiếp gần tới một sự vật, hiện tượng nào đó. Do đó tiếp cận
chỉ là bước chuẩn bị để đi sâu vào nghiên cứu, mổ xẻ sự vật, chứ chưa cho phép
hiểu được bản chất sự vật, hiện tượng. Vì vậy chỉ bằng “cách tiếp cận” mà đặt
ra yêu cầu, phải làm rõ “vấn đề tiến bộ nhân loại” thì chỉ là ảo tưởng, chủ
quan duy ý chí. Để làm rõ được khái niệm “tiên bộ nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, phải nghiên cứu toàn diện tư tưởng của Người và những hoạt động thực tiễn
của Người để thực hiện tiến bộ nhân loại theo tư tưởng đó.
Hồ Chí Minh đã kế thừa và vận dụng
sáng tạo nhiều cách thức – phương pháp làm rõ vấn đề tiến bộ và tiến bộ nhân loại
trong lịch sử trong đó có hai phương pháp chung, cơ bản: Một là phương pháp
nghiên cứu toàn bộ đời sống văn hoá nhân loại trong quá trình lịch sử tự nhiên
mà trong đó tập trung vào công cụ sản xuất để từ đó lan sang các mặt khác của đời
sống xã hội hình thành phương pháp nghiên cứu lịch sử qua các nền văn minh. Ưu
điểm của phương pháp này là khá toàn diện nhưng chưa làm rõ được động lực, quy
luật chi phối sự tiến bộ của nhân loại qua các nền văn minh. Ở phương pháp này
người ta chỉ thấy liệt kê các sự kiện lịch sử, các kết quả và thành tựu của văn
hoá đã đạt được chứ ít quan tâm tới nguyên nhân sâu xa bên trong của những sự
biến lịch sử, chưa trả lời được một cách sâu sắc câu hỏi: Vì sao nhân loại nói
chung luôn tiến bộ? Vì sao có dân tộc tiến bộ nhanh, có dân tộc tiến bộ chậm và
lại có dân tộc hiện nay vẫn ở vào thời kỳ lịch sử xa xưa? V.v..
Hai là, để kế thừa những ưu điểm và khắc
phục những nhược điểm của phương pháp nghiên cứu các nền văn minh, chủ nghĩa
Mác – Lênin đã đề xuất và thực hiện phương pháp nghiên cứu các kết cấu bên
trong và quan hệ nội tại của xã hội loài người trong lịch sử. Đó là đi từ kết cấu
kinh tế cùng các quan hệ kinh tế tới kết cấu và quan hệ chính trị, văn hoá
(theo nghĩa hẹp), xã hội v.v… Các phương pháp nghiên cứu này gọi chung là các
phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử. Bằng những phương pháp khoa học và cách mạng này, lần đầu tiên trong lịch sử,
các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã phát hiện ra vai trò quyết định
của quảng đại quần chúng nhân dân và cá nhân lãnh tụ trong lịch sử; rằng họ là
những người sáng tạo ra lịch sử bằng chính những sản phẩm của lịch sử; rằng con
người tự làm ra lịch sử của mình chứ không phải thần thánh, ma quỷ siêu nhiên;
rằng quy luật số một quyết định sự tiến bộ nhân loại, qua các nền văn minh, là
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; rằng
khi xã hội loài người bị phân chia thành giai cấp, do chế độ tư hữu xuất hiện,
thì quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất
được biểu hiện trực tiếp thành quy luật đấu tranh giai cấp – nhìn chung “Lịch sử
của xã hội loài người là lịch sử của những cuộc đấu tranh giai cấp” – đấu tranh
giai cấp là động lực phát triển – tiến bộ của xã hội có giai cấp, rằng sự phù hợp
của kiến trúc thượng tầng với cơ sở hạ tầng cũng là quy luật chung góp phần quyết
định sự tiến bộ của nhân loại v.v… Tuân theo những quy luật này trong sự vận động,
phát triển của xã hội loài người là cơ sở khoa học để chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng
định rằng “lịch sử của xã hội loài người đã dần dần tiến bộ qua các thời kỳ từ
thấp đến cao: cộng sản nguyên thuỷ è chiếm hữu nô lệ è
phong kiến è
tư bản è
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa v.v… Như vậy, tiến bộ nhân loại thực chất
là tiến bộ của xã hội loài người qua các giai đoạn lịch sử kế tiếp nhau từ thấp
đến cao.
Tóm lại bằng phương pháp duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã khái
quát bản chất của tiến bộ nhân loại: Tiến bộ nhân loại – tiến bộ xã hội là quá
trình phát triển của toàn bộ đời sống xã hội qua các giai đoạn lịch sử (các
hình thái kinh tế - xã hội) kế tiếp nhau, mà giai đoạn sau bao giờ cũng cao hơn
về trình độ phát triển so với giai đoạn trước, do các quy xã hội chi phối thông
qua hoạt động của con người và các thế hệ loài người.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chẳng những khái
quát được bản chất của tiến bộ nhân loại mà từ đó còn chỉ rõ những tiêu chuẩn
cơ bản của tiến bộ nhân loại. Đó là:
1. Tiến bộ nhân loại là tiến bộ của toàn
bộ đời sống xã hội loài người như một hệ thống toàn vẹn và hoàn chỉnh, phát triển
từ thấp đến cao. Toàn bộ đời sống xã hội là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều
hệ thống con như gia đình, nhà nước, khoa học, nghệ thuật v.v… Các hệ thống con
thường phát triển không đều. Nếu chỉ căn cứ vào một hệ thống con nào đó để xem
xét thì không thể kết luận được là xã hội đó tiến bộ hay suy thoái. Vì vậy cần
phải xem xét sự tiến bộ của tất cả các hệ thống con, nghĩa là phải xem xét sự
tiến triển của tất cả các hệ thống con, nghĩa là phải xem xét xã hội trong tính
toàn vẹn của nó trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học, nghệ
thuật… sao cho mang lại những giá trị vật chất và tinh thần cho sự phát triển
toàn diện con người ngày một tốt hơn, cao hơn. Với phương pháp luận như vậy thì
tiêu chuẩn chung nhất để xem xét sự tiến bộ xã hội chỉ có thể là phương thức sản
xuất. Bởi vì phương thức sản xuất là yếu tố quyết định sự vận động và phát triển
của toàn bộ đời sống xã hội. Theo đó thì quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản số một trong
sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao.
2. Theo C.Mác: “Không nên hiểu khái niệm
tiến bộ xã hội với một sự trìu tượng hoá tầm thường”, mà phải hiểu tiến bộ xã hội
trong quá trình “phát triển sự phong phú của bản tính con người với tư cách là
mục đích tự thân”[1].
Theo đó thì tiêu chuẩn tiếp theo của tiến bộ nhân loại là ở mức độ giải phóng
và phát huy được sức mạnh và năng lực sáng tạo của con người. Nghĩa là xã hội
nào thực hiện được yêu cầu đó tốt hơn thì được coi là tiến bộ hơn.
Tiêu chuẩn có tính mục đích cụ thể này
được phản ánh ở các thành tựu của tăng trưởng kinh tế, của phát triển khoa học
– kỹ thuật (công nghệ cao hay thấp, tiên tiến hay lạc hậu), của các nguyên tắc
quản lý, của trạng thái chính trị - xã hội, mức độ phát huy dân chủ, ở trình độ
học vấn, ở điều kiện đảm bảo sức khoẻ, ở ý thức đạo đức lối sống, ở kỷ luật lao
động, tôn trọng pháp luật và thế giới quan v.v…
Trên cơ sở vận dụng phương pháp nghiên
cứu duy vật lịch sử và những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tiến bộ
nhân loại (tiến bộ xã hội) một cách sáng tạo cho phù hợp với điều kiện lịch sử
của cách mạng nước ta, Hồ Chí Minh đã đề xuất hệ thống những quan điểm về tiến
bộ và tiến bộ nhân loại một cách cụ thể và sâu sắc:
Trước hết, trong quan niệm của Hồ Chí
Minh, tiến bộ được xem là một sự phát triển, không có phát triển thì không có
tiến bộ. Ở bài “vấn đề dân bản xứ”, đăng trên báo L.Humanité ngày 2 – 8 – 1919,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào việc phát
triển”[2]. Vấn đề là phát triển như
thế nào? Hồ Chí Minh đã chỉ rõ một cách rất cụ thể, dễ hiểu, dễ làm. Người viết
ở “Mục đọc sách” (Tài liệu chữ hán trong bản thảo “Nhật ký trong tù”): “Một vật
dùng như hai vật. Một người làm việc của hai người. Một ngày làm việc của hai
ngày. Nói ít, bắt đầu bằng hành động. Tiến bộ”[3]. Như vậy, tiến bộ ở đây là
tăng năng suất lao động. Hay ở “Bài nói tại Hội nghị mở rộng của tỉnh uỷ Hà
Đông” ngày 22 – 12 – 1959, Người nói: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì thu
hoạch phải ngày càng tăng”[4], nghĩa là kết quả trong
lao động sản xuất ngày sau phải cao hơn ngày trước, năm sau phải cao hơn năm
trước…
Tiến bộ được Hồ Chí Minh đề cập rất
toàn diện: có con người, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ… tiến bộ, có tập thể, cơ
quan, đơn vị, xí nghiệp, hợp tác xã, cộng đồng, dân tộc, đất nước, chế độ tiến
bộ; có sửa đổi lối làm việc, sửa đổi cách lãnh đạo… sao cho có kết quả cao – tiến
bộ; có con đường, xu hướng, phương pháp, tư tưởng, đạo đức, lối sống… tiến bộ;
có vũ khí, công cụ, máy móc… tiến bộ; có thi đua, sửa chữa khuyết điểm, đoàn kết…
tiến bộ; có học tập, bài viết, công trình, bản nhạc, bài hát… tiến bộ v.v… Tất
cả các mặt, các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều có phát triển theo thời gian
hoặc là tăng năng suất lao động, hoặc là ngày này, tháng này, năm này… phải có
kết quả cao hơn ngày trước, tháng trước, năm trước… đều được coi là có tiến bộ
trong công tác cách mạng cũng như trong sinh hoạt đời thường.
Từ việc mô tả, phân tích tiến bộ rất
toàn diện và cụ thể như vậy, Hồ Chí Minh đã khái quát tiến bộ nhân loại – tiến
bộ xã hội theo tinh thần của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh quá
trình phát triển khách quan của nhân loại đã trải qua các chế độ xã hội: cộng sản
nguyên thuỷ è
chiếm hữu nô lệ è
phong kiến è
tư bản rồi tất yếu lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Trong đó chế độ
sau tiến bộ hơn chế độ trước. Ví dụ: Sau khi phân tích “Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp (1789), Người khẳng định: “Thực chất nó
quy định những nguyên tắc cơ bản của chế độ tư bản, mà nổi bật nhất là quyền tư
hữu. So với chế độ phong kiến chuyên chế thì đây là một bước tiến bộ”[5]. Trong tác phẩm “Đường
Kách Mệnh” Hồ Chí Minh đã chỉ rõ sự tiến bộ vượt bậc của xã hội chủ nghĩa so với
chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong bài “Hoan hô thắng lợi vẻ vang của khoa học Liên
Xô vĩ đại”, Hồ Chí Minh viết: “Cách đây độ 100 năm, Các Mác đã nói: “Người cộng
sản hiểu biết thiên nhiên để buộc thiên nhiên phục vụ hạnh phúc loài người và
hiểu biết xã hội để cải tạo xã hội cũ xấu xa thành một xã hội mới tốt đẹp, một
xã hội cộng sản. Lời nói ấy nay đã thực hiện dần dần ở các nước xã hội chủ
nghĩa, đứng đầu là Liên Xô vĩ đại”[6]. Chỉ nói riêng về khoa học
tên lửa thì: “các người khoa học Mỹ đã phải nhận ra rằng: So với khoa học tên lửa
Liên Xô thì Mỹ đã lạc hậu năm năm”[7].
Tiến bộ nhân loại được Hồ Chí Minh
khai thác ở nhiều cách nói với những cụm từ đồng nghĩa như: “Tiến bộ của nhân
loại”, “Tiến bộ xã hội”, “Thế giới tiến bộ”, “Loài người tiến bộ” hay “các lực
lượng hoà bình và tiến bộ trên thế giới” v.v… Tiến bộ nhân loại được biểu hiện
cụ thể ở quá trình phát triển của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi nước cụ thể
theo thời gian, thường là kết quả của năm sau, thời kỳ sau cao hơn năm trước,
thời kỳ trước trên tất cả các mặt của đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã khẳng định
sử tiến bộ của các nước khi xoá bỏ chế độ phong kiến tiến lên chế độ tư bản mà
điển hình là nước Nhật, Pháp, Anh, Mỹ v.v… Người đặc biệt ca ngợi sự tiến bộ của
Liên Xô, Trung Quóc, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungari… khi xoá bỏ chế độ tư bản tiến
lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây chính là sự tiến bộ của nhân loại trong quá
trình phát triển tự nhiên qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp lên cao,
mà hình thái sau bao giờ cũng tiến bộ hơn các hình thái trước.
Đồng thời với phân tích sự tiến bộ
nhân loại được biểu hiện ở các nước trên thế giới, Hồ Chí Minh đã phân tích cụ
thể sự tiến bộ xã hội ở nước ta trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội như:
Chính trị, kinh tế, văn hoá, vật chất, tinh thần[8] v.v… Sau khi nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 18 – 12 – 1946, Người đã gửi công hàm cho chính
phủ các nước Trung Quốc, Hoa Kỳ, Liên Vô, Vương Quốc Anh: “Nước cộng hoà Việt
Nam mới… đã được thành lập một cách hợp pháp là một yếu tố của hoà bình và tiến
bộ trong việc xây dựng lại thế giới”[9].
[1]
C.Mác, các học thuyết về giá trị thặng dư, phần II, Nxb Sự thật, Hà Nội – 1969,
tr 158.
[2]
Hồ Chí Minh toàn tập, nxb CTQG, Hà Nội – 2000, Tập 1, tr 9.
[3]
Sđd, tập 2, tr 430.
[4]
Sđd, tập 9, tr 565.
[5]
Sđd, tập 1, tr 490.
[6]
Sđd, tập 9, tr 535.
[7]
Sđd, tập 9, tr 534.
[8]
Sđd, tập 5, tr 441.
[9]
Sđd, tập 4, tr 180.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét