Chủ tịch Tôn Đức
Thắng sinh ngày 20/8/1888 trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước,
tại cù lao Ông Hổ, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hoà Hưng,
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Sinh ra và lớn lên khi đất nước đã bị thực
dân Pháp xâm lược, đồng bào phải sống trong cảnh nô lệ lầm than, Tôn Đức Thắng
vô cùng căm hận bọn thực dân cùng bọn phong kiến tay sai, sớm có ý định tìm đường
cứu nước, cứu dân. Với lòng yêu nước thương nòi ấy, năm 1907, Tôn Đức Thắng đã
tham gia tổ chức cuộc bãi công của học sinh trường Bá Nghệ và công nhân nhà máy
sửa chữa tàu thủy Ba Son. Đây là thời điểm chính thức khởi đầu cho quá trình
hoàn thiện một nhân cách lớn - nhân cách người cộng sản Tôn Đức Thắng suốt đời
“Tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Năm 1913, Tôn Đức
Thắng sang Pháp làm công nhân ở Toulon
(Pháp). Năm 1916, Tôn Đức Thắng bị trưng dụng làm lính thợ cho một đơn vị Hải
quân Pháp trên chiến hạm France, tham gia phản chiến chống lại cuộc can thiệp của
Đế quốc Pháp vào nước Nga Xô Viết tại Hắc Hải. Ngày 20-4-1919, Tôn Đức Thắng
treo cờ đỏ trên chiến hạm tại đây để ủng hộ Cách mạng Nga.
Sau sự kiện kéo cờ trên Hắc Hải, Tôn Đức Thắng
bị trục xuất khỏi nước Pháp. Năm 1920, đồng chí Tôn Đức Thắng trở về Sài Gòn
cùng những người bạn thân thiết lập ra tổ chức Công hội bí mật tại Sài Gòn - Chợ
Lớn, nhằm đấu tranh bênh vực quyền lơị của công nhân. Cuối năm 1926, đồng chí
Tôn Đức Thắng gia nhập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1927, Kỳ bộ Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kỳ thành lập, đồng chí Tôn Đức Thắng được cử
là một thành viên trong ban lãnh đạo Kỳ bộ và trực tiếp phụ trách phong trào
công nhân Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1929, giữa lúc phong trào cách mạng đang phát
triển mạnh mẽ thì đồng chí Tôn Đức Thắng bị mật thám Pháp bắt đưa về giam tại Khám
lớn Sài Gòn và sau đó đầy ra Côn Đảo.
Cách mạng Tháng Tám
thành công, đồng chí Tôn Đức Thăng trở về tham
gia ngay vảo cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ. Từ đó,
đồng chí đã cùng Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Mặt trận lãnh đạo nhân
dân ta xây dựng chính quyền, tiến hành kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ thắng lợi, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đồng chí Tôn Đức Thắng được
phân công giữ nhiều trọng trách: Uỷ viên Uỷ ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ
phụ trách về vấn đề lương thực và vũ khí; Đại biểu Quốc hội khóa đầu của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và tham gia phái đoàn Quốc hội ta sang Pháp; Ủy viên
Ban thường trực Quốc hội; Phó Hội trưởng Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam; Tổng
thanh tra Chính phủ; Bộ trưởng Bộ nội vụ; Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng;
Trưởng ban Trung ương vận động thi đua ái quốc; Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc
hội; Chủ tịch Hội hữu nghị Việt - Xô; Chủ tịch Mặt trận Liên việt; Trưởng ban
Thường trực Quốc hội; Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam; Chủ
tịch danh dự Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam;
Chủ tịch danh dự Ủy ban bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam; Ủy viên Hội
đồng hòa bình thế giới; Trưởng ban Thanh toán nạn mù chữ Trưng ương; Phó Chủ tịch
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa; Chủ tịch danh dự Ủy ban thiếu niên, nhi đồng Việt
Nam.
Ở bất cứ đâu,
trong hay ngoài nước, làm bất cứ công việc gì và trên cương vị nào, đồng chí
Tôn Đức Thắng cũng đều nêu cao tấm gương sáng “Tận trung với nước, tận hiếu với
dân” cho các thế hệ sau mãi nãi noi theo về lòng trung thành, tận tụy; phấn đấu
liên tục; mẫu mực thực hành cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; luôn thành thật,
khiêm tốn, giản dị với lòng thương yêu tổ quốc và con người bao la, nguyện suốt
đời phấn đấu giành lại độc lập cho tổ quốc và cho hạnh phúc của nhân dân. Cuộc
đời và sự nghiệp của đồng chí gắn liền với những bước thành công của cách mạng
nước nhà dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam , sáng ngời
chân lý của dân tộc và thời đại.
Tháng 8 năn
1958, nhân dịp đồng chí Tôn Đức Thắng 70 tuổi, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và
Chính phủ đã quyết định tặng đồng chí Huân chương Sao vàng. Chủ tịch Hồ chí
Minh, trong lễ trao tặng huân chương, đã khẳng định những cống hiến xuất sắc,
phản ánh nhân cách lớn, của đồng chí Tôn Đức Thắng trong quá trình cách mạng Việt
Nam và thế giới cho đến thời điểm đó. Người nói: “Đồng chí Tôn Đức Thắng là một
người con ưu tú của Tổ quốc, suốt 50 năm đã không ngừng hoạt động cách mạng. 17
năm bị thực dân Pháp cầm tù, chín năm tham gia lãnh đạo kháng chiến, bốn năm phấn
đấu để giữ gìn hòa bình thế giới và đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất nước nhà
…Đồng chí Tôn Đức Thắng là một gương mẫu đạo đức cách mạng: Suốt
đời cần, kiệm, liêm, chính; suốt đời hết lòng hết sức phục vụ cách mạnh, phục vụ
nhân dân”[1] - “Tận trung với nước, tận
hiếu với dân”.
Ngày 2-9-1969,
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa III, đồng chí Tôn
Đức Thắng được bầu làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và sau đó là Chủ
tịch đầu tiên của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đồng thời kiêm Chủ tịch
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy tuổi tác càng
cao, sức khỏe càng giảm, nhưng đồng chí Tôn Đức Thắng (Bác Tôn) vẫn đem toàn
tâm, toàn trí và sức lực của mình làm tròn trọng trách Quốc hội và nhân dân
giao phó, không sợ hy sinh gian khổ, luôn kề vai sát cánh cùng đồng bào hai miền
quyết tâm đánh Mỹ, Ngụy đến thắng lợi hoàn toàn, góp công lớn trong đấu tranh
thống nhất đất nước và đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhân cách lớn của
người chiến sĩ cộng sản Tô Đức Thắng ngày càng tỏa sáng, thật xứng đáng tấm
gương tận trung với nước và tận hiếu với dân. Phẩm chất đạo đức cách mạng cao cả
này được biểu hiện cụ thề ở quá trình Bác Tôn nhận thức sâu sắc và rèn luyện
không biết mệt mỏi đồng bộ cả năm chuẩn mực đạo đức “Cần kiệm liêm chính, chí
công vô tư” mà lãnh tụ Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cao đối với đội ngũ cán bộ, trước
hết là đối với cán bộ đứng đầu.
Bác Tôn trước hết
là một tấm gương mẫu mực về đức “cần”. Bác rất cần cù - siêng năng và sáng tạo
trong công tác cách mạng cũng như trong đời thường. Bác rèn luyện đức “cần” từ
thủa nhỏ. Cần cù - siêng năng, chủ động bền bỉ, dẻo dai, làm cho đến nơi đến chốn
(có kết quả), “không muốn phiền ai làm hộ viếc gì mà Bác có thể tự tay làm được”[2] đã trở thành lẽ sống, niềm
vui và hạnh phúc của Bác. Càng ở cương vị cao, niềm hạnh phúc được làm nhiều việc
có ích cho cách mạng, cho nhân dân càng lớn. Là người lãnh đạo, Bác Tôn luôn có
sáng tạo, cụ thể và cẩn thận trong tổ chức, sắp xếp công việc có kế hoạch, chặt
chẽ, hợp lý. Bác Tôn luôn là người mẫu mực trong chấp hành kỷ luật của Đảng,
pháp luật của nhà nước, trước hết là kỷ luật lao động và cũng rất nghiêm khắc với
những người thiếu ý thức, kỷ luật, tắc trách trong công tác.
Khi
chưa gánh vác trọng trách Chủ tịch nước đã có nghiều sách, báo ghi lại nhiều
câu chuyện về tấm gương điển hình thực hiện chữ “Cần” của Bác Tôn ở cả trong và
ngoài nước[3] . Trên cương vị chủ tịch
nước, dù đã ở tuổi 81, nhưng đức “Cần” của Bác Tôn vẫn được nâng cao hơn trước
cả về lượng và chất. Cùng với phải giải quyết trăm công nghìn việc của một Chủ
tịch nước kiêm Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nhưng “Bác
Tôn vẫn giành tới gần nửa thời gian làm việc để tiếp dân và giải quyết đề nghị
của dân qua thư từ gửi Bác. Bác thường xuyên nhắc nhở đồng chí thư ký: tất cả
những bức thư của dân gửi tới đều phải đưa Bác xem xét. Và, thực tế, Bác đã giải
quyết có kết quả nhiều thư đề nghị của nhân dân”[4] . Ở Bác Tôn đức tính cần
cù, tận tuỵ không chỉ đơn thuần là siêng năng, chăm chỉ làm việc mà còn thể hiện
một tâm hồn cộng sản cao quý: tất cả để phục vụ cách mạng, tất cả vì hạnh phúc
của nhân dân.
Bác Tôn còn nêu
cao tấm gương mẫu mực của một người cán bộ cách mạng trong thực hành tiết kiệm:
tiết kiệm tiền của, sức lực, thời gian của cả việc công cũng như việc tư. Bác hạn
chế đến mức thấp nhất việc chi dùng cho bản thân, cho gia đình và cho cơ quan.
Bác không bao giờ lãng phí của công hay của tư dù chỉ một chút ít. Trước khi
Bác đảm nhận chức Chủ tịch nước, tấm gương thực hành tiết kiệm ở mọi lúc, mọi
nơi, mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp của Bác đã trở thành mẫu mực cho toàn Đảng,
toàn dân học tập noi theo. Ở cương vị chủ tịch nước mà cả “Bác trai lẫn bác gái
vẫn quần nâu áo vải, không bao giờ dùng đồ nhung lụa đắt tiền, bác gái vẫn ngồi
vá áo gối, Bác trai vấn tay kìm tay búa sửa xe đạp cho con cháu”[5] .Tấm gương thực hành tiết kiệm của Bác gắn chặt
với tinh thần làm cho ích quốc, lợi dân đến vô cùng. Là một vị Chủ tịch nước,
nhưng Bác vẫn mặc áo cũ có nối thêm tay. Có cán bộ hỏi:
“- Bác ơi, làm Chủ tịch
nước sao Bác mặc áo cũ nối thêm thế này?
Bác cười độ lượng:
- Chủ tịch nước mặc áo nối thì dân mới đủ cơm ăn.”[6]
Bác Tôn cũng là
tấm gương cao cả về đức tính liêm khiết, trong sạch: không tham lam tiền tài giầu
sang phú quý; không tham danh vọng, chức tước địa vị, đặc quyền đặc lợi. Trên
cương vị Chủ tịch nước, dù khi đất nước còn chiến tranh ác liệt hay khi đã hòa
bình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Bác Tôn luôn căn dặn cán bộ: “Làm cán bộ là để
phục vụ cho dân, cho nước, chứ không phải để “làm quan”. Phải gương mẫu chấp
hành luật lệ của Nhà nước, quy định của tổ chức để làm gương cho mọi người.
Không tự tạo những đặc quyền, đặc lợi”[7] . Có lần, một đồng chí cán
bộ cao cấp qua đời, người vợ đến gặp Bác trình bầy hoàn cảnh túng thiếu, khó
khăn của mình. “Từ đó, hàng tháng gia đình của người quả phụ nhận được đều đặn
số tiền lương của chính Bác dành dụm gửi cho. Bác không dùng của công, dùng tiền
Nhà nước giúp đỡ những người thân thích của mình”[8] . Bác Tôn sống ngay thẳng,
thật thà, chân thành, cởi mở nhưng không thích người khác ca ngợi tâng bốc
mình. Bác ghét thói xu nịnh, cơ hội chủ nghĩa, bè phái… Bác Tôn chỉ suốt đời tận
tuỵ phục vụ cho cách mạng, cho Đảng, cho nhân dân. Để làm được điều đó, Bác chỉ
biết ham học hỏi, ham làm việc, ham tiến bộ cả trong những lúc khó khăn, vất vả
nhất. Càng khó khăn bao nhiêu, Bác Tôn càng ham tìm tòi, học hỏi bấy nhiêu. Đó
là cái chất quý nhất của người chiến sĩ cách mạng chân chính mà nghèo khó không
thể chuyển lay, giầu sang không thể quyến rũ và uy vũ không thể khuất phục; biết
lo trước mọi người và hưởng sau mọi người (Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu
thiên hạ chi lạc nhi lạc).
Tấm gương chính
nghĩa, chí công vô tư của Bác Tôn cũng nổi bật, toả sáng, xua đi những bóng đen
gian tà, độc ác, lợi dụng chức quyền để mưu cầu lợi ích cá nhân. Bác Tôn rất
căm ghét thói đặc quyền, đặc lợi. Vì vậy, Bác không bao giơ mảy may lợi dụng chức
vụ và quyền lực mà Đảng và nhân dân giao cho để mưu cầu lợi ích, an nhàn cho
Bác và gia đình Bác. Kể cả trong thời kỳ trước cách mạng Tháng Tám, trong kháng
chiến trường khi gian khổ, cũng như trong hoà bình xây dựng CNXH cũng vậy. Làm
Chủ tịch nước nhưng Bác Tôn và vợ Bác vẫn sống bình dân giản dị. Mọi vật dụng của
một vị chủ tịch nước “chỉ đựng chưa đầy trong chiếc tủ nhỏ”[9]. Cả ngôi nhà mà chính phủ
phân cho Bác ở, trước khi mất, Bác cũng dặn cháu con trả lại cho Nhà nước và
chuyển đến chỗ ở khác đúng với tiêu chuẩn của mình. Là người gánh vác nhiều trọng
trách trong Đảng, Nhà nước và Mặt trận dân tộc thống nhất, Bác Tôn đã nêu một tấm
gương sáng về thực hành đức “chính” và “chí công vô tư”: Tích thiện, trừ ác,
“Phụng công vi thượng” của đạo đức cách mạng cao cả. Đó chính là động lực tinh
thần to lớn, nguồn nội lực vô hạn để Bác Tôn hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ
trọng đại của mình. Với tấm gương ấy, ở Bác Tôn đã toả sáng một đạo đức mới, một
niềm tin cách mạng, có sức cảm hoá sâu sắc, có sức thu hút, tập hợp lực lượng
to lớn cho thành công của cách mạng nước nhà. Đó cũng chính là sự đóng góp vô
giá của Bác Tôn đối với toàn Đảng, toàn dân ta.
Đối với quê
hương và gia đình, Bác Tôn cũng dành trọn tình thương yêu rất đượm nồng và sâu
lắng: Đối với con, Bác Tôn luôn khuyên răn và nêu một tấm gương đạo đức cách mạng
“Tận trung với nước, tận hiếu với dân”. Đối với vợ, Bác Tôn dành trọn tình
nghĩa vợi chồng thủy trung son sắt. Khi vợ lâm bệnh nặng, Bác Tôn nói với vợ những
lời yêu thương tha thiết: “Tôi đã bỏ bà bơ vơ mấy chục năm trới, tôi chỉ có mỗi
cách chuộc lỗi là được lo cho bà tới giờ phút lâm chung…đêm đêm, sau những giờ
làm việc, Bác thức giấc bên giường, theo dõi từng tiếng thở, từng tiếng cựa
mình”[10] của người vợ thương yêu.
Đối với quê hương, Bác luôn mong nhớ: Sau 30 năm xa cách, tháng 10-1975, Bác mới
có dịp về thăm quê ở Cù lao Ông Hổ thuộc xã Mỹ Hòa Hưng, Thành phố Long Xuyên,
An Giang. Bác thắp hương trước bàn thờ tổ tiên, bồi hồi nhớ lại những kỷ niệm
thời thơ ấu, ân cần hỏi thăm về sức khỏe, đời sống vật chất và tinh thần của
anh em họ mạc và bà con xóm ấp. Bác tỏ lòng biết ơn sâu người thầy giáo cũ, nhớ
từ chiếc cầu, đường thôn, chòm xóm, khóm tre, bờ sông bến nước đến ngôi nhà sàn
gỗ ngày xưa, cây xoài trước cổng nhà.v.v.[11] Trước khi rời quê nhà,
Bác “động viên nhân dân An Giang luôn đoàn kết, phấn đấu trở thành một tỉnh giầu
mạnh, nhân dân no ấm, ai cũng được học hành như Bác Hồ mong muốn đối với nhân
dân cả nước”[12].
Nhiều nhà lãnh
đạo và lý luận lớn của Đảng ta thống nhất cho rằng: Bác Tôn “không phải là một
nhà lý luận” mà “là con người hành động, hành động tiên phong”[13] trong thực hành đạo đức cách mạng “Tận trung
với nước, tận hiếu với dân”. Với cuộc vận
động tiếp tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo Chỉ thị 03
của Bộ chính trị, việc bổ sung thêm nội dung làm theo tấm gương thực hành “Tận
trung với nước, tận hiếu vời dân” của Chủ tịch Tôn Đức Thắng sẽ góp phần quan
trọng thực hiện thắng lợi Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ tư của Đảng,
đáp ứng được nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh tẩy trừ “quốc
nạn tham nhũng” ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, có cả cán bộ cao cấp trong Đảng
ta hiện nay để lấy lại niềm tin yêu, kình phục và nguyện một lòng đi theo Đảng
của toàn thể nhân dân ta. Đây mới là yếu tố quyết định nhất sự sống còn của chế
độ và bảo đảm nhất sự thống nhất, nền hòa bình và sự thắng lợi của công cuộc đổi
mới đất nước ta trong thời đại ngày nay.
[1].
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb CTQG, xb Lần ba, Hà Nội,
2011, t. 11, tr. 519-520.
[2]. Những mẩu chuyện về Bác Tôn, Sở văn hoá thông tin tỉnh
An Giang - 1998, tr. 8.
[3]. Những mẩu chuyện về Bác Tôn, Sở văn hoá thông tin tỉnh
An Giang - 1998, tr. 21, 49-50, 98, 131…
[4]. Sđd, tr. 37-38.
[5]. Sđd, tr. 28
[6]. Sđd, tr. 29.
[7]. Sđd, tr. 31
[8]. Sđd, tr. 35
[9]. Sđd, tr. 28
[10]. Sđd, tr. 108
[11]. Sđd, tr. 105
[12]. Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước: Tôn Đức Thắng tiểu sử, Nxb CTQG, Hà Nội, 2007, tr. 214
[13]. Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước: Sđd, tr. 238.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét