Cách đây 60 năm, ngày 11 tháng 6 năm
1948, Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Hưởng ứng lời kêu gọi
của Người, cả dân tộc ta đã tích cực tham gia các phong trào thi đua ái quốc
liên tục do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo và tổ chức. Kết quả thật là to lớn, thật là vĩ đại- tạo ra sức mạnh
tổng hợp vô địch, quyết định sự thắng lợi ngày càng to lớn hơn của cách mạng
nước ta.
1. Bản chất của các
phong trào thi đua ái quốc do Hồ Chí Minh phát động.
Trên cơ sở tổng kết truyền thống dân tộc
ta, Hồ Chí Minh đã khái quát: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, thì
tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó
lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp
nước”[1].
Từ quan điểm nền tảng này Hồ Chí Minh đã phân tích cụ thể những ưu, nhược điểm,
thế mạnh, thế yếu của nước ta sau cách mạng Tháng Tám, và chỉ rõ: “Nước ta kinh
tế còn lạc hậu, nhưng lòng yêu nước và ý chí quật cường chẳng kém ai…”[2],
“đường chúng ta còn dài, gánh chúng ta còn nặng, chúng ta cần phải phát triển
và nâng cao mãi cái truyền thống oanh liệt, cái lực lượng đoàn kết và cái chí
khí kiên quyết ấy lên nữa, nâng cao lên mãi. Nâng cao bằng cách gì? Bằng thi
đua ái quốc”[3].
Chuyện kể rằng: Cuối tháng 4 năm 1946,
do thực dân Pháp cố tình xâm lược nước ta, Hồ Chí Minh đã nhận lời mời của
Chính phủ Pháp sang Pháp đàm phán. Lúc này, phái đoàn đàm phán của Chính phủ ta
do thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu cũng đang chuẩn bị sang Pháp. Trong khi Hồ
Chí Minh vẫn làm việc bình thường theo đúng kế hoạch, không quan tâm nhiều tới
cách và đồ may mặc, thì nhiều cán bộ trong đoàn đàm phán lo tìm hiểu để may mặc
cho hợp “mốt Pari”, có người còn lo cả nước hoa… Thấy thế, Hồ Chí Minh nói:
“Các chú muốn thi đua với tổng thống, thủ tướng nước ngoài về ăn mặc thì thua
họ thôi. Bác cháu ta thi đua với họ về lòng yêu nước, thương dân thì ta mới
thắng”[4].
Tổng hợp những quan điểm của Hồ Chí Minh
về thi đua yêu nước (TĐYN) sẽ thấy rõ cái thực chất nhất- cái bản chất sâu sắc
nhất của nó. Theo Hồ Chí Minh, TĐYN là những ngày hội cách mạng rộng lớn, huy
động đến mức cao độ lực lượng tinh thần (Chủ nghĩa yêu nước- tinh thần dân tộc
chân chính) và lực lượng vật chất của toàn thể dân tộc, của mỗi người dân yêu
nước Việt Nam, nhằm thực hiện thắng lợi những mục tiêu của cách mạng nước ta ở
mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, sao cho những kết quả sau cao hơn kết quả
trước, đưa cách mạng nước ta tới thắng lợi cuối cùng.
Quá trình cách mạng nước ta trải qua
nhiều giai đoạn. Mục tiêu ở mỗi giai đoạn có khác nhau ít nhiều do tình hình
trong nước và quốc tế đã thay đổi. Những mục tiêu đó chính là mục đích của
TĐYN. Tuy mục đích có khác nhau qua mỗi giai đoạn, nhưng có một cái chung là:
để đảm bảo thắng lợi cho cách mạng phải huy động (động viên) được sức mạnh tổng
hợp cả tinh thần và vật chất của toàn dân. Phát huy được cái chung đó là bản
chất sâu sắc nhất của TĐYN dù ở bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Ở nhiều bài
viết và bài nói của Người với các tầng lớp nhân dân, với quân đội và công an,
Hồ Chí Minh chỉ rõ: không nên tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những
công việc hàng ngày, “thật ra, công việc hàng ngày chính là nền tảng của thi
đua”[5].
Nghĩa là phải phấn đấu làm tốt hơn nữa những công việc hàng ngày để đảm bảo
“mỗi ngày lập một chiến công”[6].
Người ví dụ: Từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn,
mặc, ở cho sạch sẽ, cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau ốm. Xưa ta vẫn làm ruộng, nay
ta thi đua làm cho đất tốt hơn, sản xuất nhiều hơn v.v.. Người khái quát: “Mọi
việc thi đua đều như vậy”[7].
Như vậy nội dung chính, chỉ ra cái bản chất đích thực của thi đua được biểu
hiện cụ thể là đòi hỏi mọi người tham gia thi đua phải huy động tổng hợp trí
tuệ, tài năng, sức mạnh ý chí quyết tâm của mình đến mức cao độ, đến mức nảy
sinh sáng kiến (có sáng tạo) để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình, thậm chí
cả đối với những nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp, nặng nề, mà nếu không có tinh
thần thi đua với ý chí, quyết tâm cao thì không thể làm được. Kết quả công việc
ngày hôm nay cho dù nó rất khó khăn, phức tạp, nặng nề… vẫn phải cao hơn, nhiều
hơn, tốt hơn ngày hôm qua- đó chính là mệnh lệnh của thi đua ái quốc- “mỗi ngày
lập một chiến công” Hồ Chí Minh còn nói: “Thi đua không phải là “ganh đua”[8]
- “tranh đua”[9] để
nhắc nhở mọi người phải luôn tăng cường đoàn kết, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau,
dìu dắt nhau cùng tiến bộ; tránh rơi vào bệnh thành tích, “thi đua một mình”,
“giấu nghề”, hay quan liêu, mệnh lệnh bắt buộc, cưỡng bức cấp dưới, nhân dân
phải thi đua… Những điều nhắc nhở này làm cho bản chất của TĐYN thêm sâu sắc.
Cái bản chất ấy là quy luật cơ bản của TĐYN được thể hiện rõ qua các giai đoạn cách mạng nước
ta.
Trong thời kỳ vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, Hồ Chí Minh xác định rõ mục đích của TĐYN là: Diệt giặc đói, diệt giặc
dốt và diệt giặc ngoại xâm. Để thực hiện thành công mục đích đó. Người chỉ rõ:
“Chúng ta càng phải động viên toàn thể lực lượng tinh thần và vật chất để đẩy
tới công việc kháng chiến”[10],
hay: “Đưa tất cả tinh thần và lực lượng của quân và dân Việt Nam để thực hiện ba mục đích:
Diệt giặc đói.
Diệt giặc dốt.
Diệt giặc ngoại xâm”[11]
Và “Mọi người đều phải đưa chí sáng
suốt, lực lượng và tài năng của mình vào đó, để phụng sự dân tộc, phụng sự tổ
quốc”[12],
Người viết thơ chúc tết năm 1949 cũng với tinh thần như vậy.
“Kháng chiến lại thêm một năm mới
Thi đua ái quốc thêm tiến tới.
Động viên lực lượng và tinh thần.
Kháng chiến càng thêm mau thắng lợi”[13]
Trong thời kỳ hợp tác hoá và cải tạo xã
hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh cũng kêu gọi mọi người dân miền Bắc cần tập trung
lực lượng tinh thần và vật chất thi đua đẩy mạnh phong trào hợp tác và cải tạo
xã hội chủ nghĩa. Từ năm 1959 đến năm 1963, để hoàn thành công cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Bắc và để thực hiện thắng lợi các Nghị quyết của Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ ba của Đảng, Hồ Chí Minh đã động viên, khuyến khích
các phong trào thi đua yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội như: “Cờ Ba Nhất (1959),
“Gió Đại Phong” (1960). “Sóng Duyên Hải” (1961) và “Trống Bắc Lý” (1961) v.v…
Khi đế quốc Mỹ ồ ạt đưa gần 40 vận quân
vào miền Nam, bắn phá ác liệt miền Bắc, Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào
và chiến sĩ cả nước: Không có gì quý hơn độc lập tự do, quyết chiến, quyết
thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, tiến tới thống
nhất nước nhà. Hưởng ứng lời kêu gọi đó, cả nước đã dấy lên phong trào thi đua
yêu nước với khẩu hiệu “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược”. Tất cả các cuộc vận động trước đây như “Mỗi người làm việc bằng hai”,
“Ba sẵn sàng”, “Ba đảm đang”, “Ba xây, ba chống”, v.v.. trong những năm này,
đều được cả nước hưởng ứng. Trong từng lĩnh vực lại có những cuộc vận động cụ
thể, thiết thực, mang lại hiệu quả lớn như: trong chiến đấu nêu cao khẩu hiệu:
“Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, quyết tâm đạt danh hiệu “Dũng sĩ bắn máy bay Mỹ”;
trong sản xuất công nghiệp, anh chị em công nhân quyết tâm phấn đấu đạt “Ba
điểm cao” (năng suất cao, chất lượng tốt, tiết kiệm nhiều); trong sản xuất nông
nghiệp, bà con nông dân, xã viên thi đua thực hiện “Ba mục tiêu” (5 tấn thóc, 2
con lợn trong một năm và mỗi lao động làm một ha gieo trồng); trong lĩnh vực
khoa học-kỹ thuật, anh chị em trí thức thi đua thực hiện “Ba uyết tâm” (quyết
tâm phục vụ tốt sản xuất và chiến đấu, quyết tâm đẩy mạnh cách mạng kỹ thuật,
cách mạng văn hoá và tư tưởng, quyết tâm xây dựng và phát triển đội ngũ trí
thức xã hội chủ nghĩa). Cán bộ, công nhân viên trong các cơ quan hành chính sự
nghiệp thi đua thực hiện “Ba cải tiến” (cải tiến công tác, cải tiến tổ chức và
cải tiến lề lối làm việc); trong thiếu niên nhi đồng có phong trào “Nghìn việc
tốt” diễn ra sôi nổi hoà nhịp với các phong trào thi đua khác trong cả nước…
Đối với tất cả các phong trào thi đua này, Hồ Chí Minh đều giành nhiều tình cảm
và sự chú ý đặc biệt. Người luôn quan tâm, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, viết
lời khích lệ, thăm hỏi động viên kịp thời. Tất cả chỉ tập trung vào vấn đề cốt
lõi của thi đua yêu nước là: huy động đến mức cao nhất sức mạnh tinh thần và
vật chất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam nhằm thực hiện thắng lợi những
mục tiêu của cách mạng nước ta.
2. Quan điểm của Hồ
Chí Minh về ý nghĩa của thi đua yêu nước.
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới TĐYN
vì nó tạo ra những ngày hội cách mạng của cả nước, huy động tất cả sức người,
sức của, đảm bảo cho cách mạng nước ta thành công. Riêng về ý nghĩa của TĐYN
cũng được Hồ Chí Minh phân tích ở nhiều bài nói và viết của Người, nhưng tập
trung ở Bài nói tại Đại hội các chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc
năm 1952.
Ý nghĩa lớn, sâu sắc nhất của TĐYN là
góp phần cải tạo và phát triển toàn diện con người. Trong các phong trào TĐYN,
mỗi người dân yêu nước đều ra sức phát huy đến mức cao nhất lòng yêu nước, tinh
thần dân tộc chân chính, yêu chủ nghĩa xã hội, “tận trung với nước”, “với
Đảng”, “tận hiếu với dân”; bồi dưỡng và phát triển những tình cảm cao đẹp, xây
dựng ý chí quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ; do đó mà tận dụng sức lực, phát huy
trí tuệ và tài năng, phát triển sáng kiến…Cũng trong thi đua mà mỗi người đều
cố gắng “…tẩy sạch mọi khuyết điểm, phát triển mọi ưu điểm, vượt qua mọi khó
khăn”[14]…
Như vậy, trong thi đua yêu nước, con người dần dần được cải tạo và phát triển
toàn diện cả Đức-Trí-Thể-Mỹ. Hồ Chí Minh kết luận: “Thi đua cải tạo con người”[15].
Và qua đó, cái kết quả tất yếu là góp phần phát triển toàn diện con người. Cái
đích của TĐYN là hoàn thành và hoàn thành vượt mức mọi nhiệm vụ được giao để
góp phần xứng đáng vào xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ đất nước. Cho
nên đã là người yêu nước thì phải tích cực tham gia các phong trào thi đua, và
Người tích cực nhất trong các phong trào thi đua cũng là người yêu nước nhất.
Trên tinh thần đó, Hồ Chí Minh kết luận: “Thi đua là yêu nước, yêu nước thì phải
thi đua”[16].
“…thi đua là đoàn kết”[17].
Và “đoàn kết đẩy mạnh thi đua”[18].
Ý nghĩa này chỉ rõ: Các phong trào TĐYN chỉ thành công tốt đẹp khi sức thi đua
của mỗi người, mỗi ngành, mỗi cấp được kết hợp lại- được tổ chức chặt chẽ theo
một chương trình, kế hoạch thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam .
Nghĩa là TĐYN chỉ thành công khi toàn dân đoàn kết lại. Hồ Chí Minh khái quát:
đoàn kết là lực lượng, đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thành công, là quy
luật của thành công.
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết
Thành công, thành công, đại thành công”[19]
Trong đoàn kết mọi người đều ra sức thi
đua thì sức mạnh của đoàn kết tăng lên gấp bội. Có đoàn kết, thương yêu giúp đỡ
nhau mới khắc phục được bệnh “ganh đua”- “tranh đua”, bệnh “thành tích”, “giấu
nghề”, bệnh “cửa quyền”, “mệnh lệnh” cưỡng bức thi đua… Vì vậy TĐYN phải gắn
liền với đại đoàn kết. Hai mặt của một vấn đề này luôn luôn tạo điều kiện tiền
đề cho nhau, hỗ trợ nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, cùng nhằm một mục tiêu
chung là đưa cách mạng nước ta tới thắng lợi hoàn toàn.
“Thi đua chẳng những bồi dưỡng tinh thần
đoàn kết và tinh thần yêu nước của dân tộc ta, mà lại làm cho nhân dân ta đoàn
kết với nhân dân lao động toàn thế giới”[20].
Trong nội dungcủa TĐYN, Hồ Chí Minh còn gắn kết các phong trào thi đua trong
nước với các phong trào thi đua của nhân dân các nước trên thế giới, trước hết
là với các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Sự gắn kết này chẳng những mở rộng
khối đại đoàn kết, mà còn nâng cao tinh thần TĐYN: nhân dân ta chẳng những thi
đua với nhân dân thế giới, học hỏi nhân dân thế giới, mà còn nâng cao tinh thần
quốc tế, làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang của mình. Trên cơ sở đó mà nhân lên
sức mạnh của nước ta bằng cách kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,
phát huy nội lực tranh thủ ngoại lực, bảo đảm vững chắc cho sự thắng lợi của
cách mạng nước ta.
“Thi đua là góp sức giữ gìn hoà bình và
dân chủ thế giới”[21].
Ý nghĩa quan trọng này của TĐYN được rút ra từ sự gắn kết các phong trào thi
đua trong nước với các phong trào thi đua của nhân dân thế giới đấu tranh vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Ý nghĩa này của TĐYN đã
làm cho các phong trào thi đua vượt phạm vi quốc gia, vươn tới tầm cao quốc tế,
đưa các quốc gia dân tộc và nhân loại xích lại gần nhau, chung lưng đấu cật với
nhau trong công cuộc đấu tranh chung vì sự phát triển và tiến bộ của xã hội
loài người và chinh phục tự nhiên theo lời kêu gọi của Hồ Chí Minh: “Tất cả mọi
người hãy đứng lên quanh lá cờ đỏ để chinh phục thế giới”[22].
Ý nghĩa to lớn nhất của TĐYN là: “Thi
đua ái quốc sẽ ăn sâu, lan rộng khắp mọi mặt và mọi tầng lớp nhân dân và sẽ
giúp dẹp tan mọi nỗi khó khăn và mọi âm mưu của địch để đi đến thắng lợi cuối
cùng”[23].
Như vậy TĐYN là một trong những quy luật thắng lợi của cách mạng Việt Nam . Tư
tưởng Hồ Chí Minh về TĐYN đã trở thành đường lối, nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng, đưa đường, chỉ lối, hướng dẫn nhân dân ta đi tới thắng lợi ngày càng to
lớn, rực rỡ hơn, vĩ đại hơn.
Trong công cuộc đổi mới hiện nay, đồng
thời với những thời cơ, vận hội rộng lớn, vẫn còn những thách thức, nguy cơ rất
hiểm nghèo. Nhưng chính chúng lại tạo ra những động lực mới thúc đẩy toàn thể
nhân dân ta tích cực tham gia các phong trào TĐYN, do Đảng ta phát động và tổ
chức, với khí thế và quyết tâm mới. Đó chính là nguồn sức mạnh vô tận của dân
tộc ta trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc và xây dựng thành công tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa hướng tới mục tiêu dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét