Tính từ ngày Bác (Chủ tịch Hồ Chí
Minh) viết bản di chúc cuối cùng (19-5-1969), hơn 40 năm đã trôi qua mà cứ ngỡ
thời gian có chiều ngược lại! Bản di chúc của Bác biểu hiện tập trung chủ nghĩa
nhân văn cao cả và triệt để, gửi gắm tâm nguyện của một bậc vĩ nhân suốt đời phấn
đâu đến phút giây cuối cùng vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và nhân loại. Di chúc của Bác đã truyền niềm tin tất thắng và như túi cẩm nang
thần kỳ đưa đường, chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân ta tiến bước vững chắc trên
con đường cách mạng không ngừng.
Bản
di chúc (“Tài liệu tuyệt đối bí mật”) được Bác viết vào một khoảng thời gian nhất
định trong 5 năm liền (từ 1965 đến 1969) trước khi Người qua đời. Năm 1965, Bác
viết bản đầu tiên. Năm 1966 và 1967, Bác xem lại bản đầu, có suy nghĩ cân nhắc,
nhưng chưa chỉnh sửa, thêm bớt gì. Năm 1968, Bác chỉnh sửa và thêm một số ý vào
bản đầu. Ngày 19-5-1969, trên cơ sở đã chỉnh sửa bản đầu và bản năm 1968 ở những
ngày trước đó, Bác viết bản di chúc cuối cùng. Mỗi năm, Bác chỉ giành tối đa là
10 ngày (từ ngày 10 đến ngày 19 tháng 5), tức là trước và chính ngày sinh nhật
của Người, vào khoảng thời gian từ 9h đến 10h sáng để viết di chúc, bất đắc dĩ
lắm Bác mới viết vào giờ khác[1]. Đây là một sự lựa chọn có
chủ ý sao cho khi viết di chúc Bác có sức khỏe tốt nhất và tinh thần minh mẫn
nhất để đảm bảo di chúc có ích lợi nhiều nhất cho cách mạng. Như vậy là ngay cả
khi sắp đi vào cõi vĩnh hằng, Bác vẫn canh cánh trong lòng một nỗi lo toan phải
làm thế nào để phục vụ được nhiều nhất, tốt nhất cho nhân dân và nhân loại.
Di
chúc của Bác vừa có những điều cụ thể cần thiết trước mắt, vừa có những điều thấm
thía, định hướng chiến lược lâu dài. Trong đó, trước hết Bác nói về Đảng ta – lực
lượng lãnh đạo quyết định sự thắng lợi của cách mạng nước nhà. Ngay sau đó Bác
nói về đoàn viên và thanh niên – lực lượng kế thừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Tiếp theo Bác nói đến nhân dân lao động – động lực vô địch của cách mạng dưới sự
lãnh đạo của Đảng ta; nói đến ý chí quyết tâm đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và
nhất định thắng chúng cho dù cuộc chiến đấu đó có thể còn kéo dài, đồng bào ta
có thể còn phải hy sinh nhiều người, tốn hao nhiều của…; nói đến phong trào cộng
sản quốc tế với niềm tin các đảng anh em nhất định sẽ phải đoàn kết lại. Đoạn
Bác nói về “việc riêng” thật ít, thật khiêm tốn biết bao! Nhưng nhân nghĩa lại
thật nhiều, thân thương và xúc động biết bao! Cuối cùng, Bác để lại muôn vàn
tình thân yêu và những điều mong muốn cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục sự
nghiệp cách mạng đến thắng lợi vẻ vang.
Toàn
văn bản Di chúc của Bác là kết tinh những triết lý nhân sinh hết sức cô đọng,
sâu sắc ở nhiều tầng bản chất, có lẽ phải qua nhiều thế hệ kế tiếp mới có thể
lý giải thoả đáng. Tuy vậy, bước đầu có thể khẳng định được rằng: Những điều
mong muốn cuối cùng của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng
một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[2] cũng chính là những mục
tiêu chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta mà Bác di chúc lại cho toàn Đảng,
toàn dân ta tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để hướng dẫn việc thực
hiện thắng lợi những mục tiêu ấy, Bác đã viết bằng cả tâm huyết của mình bản Di
chúc thiêng liêng, mà trong đó cái hạt nhân và cũng là cái then chốt nhất –
then chốt trong cái then chốt (cái then chốt ở đây là xây dựng Đảng ta thật sự
trong sạch vững mạnh) – là Bác mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, mỗi người, mỗi
đảng viên và cán bộ phải nêu gương suốt đời tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo
đức cách mạng.
Cái
hạt nhân ấy cũng là cái then chốt nhất ấy hoàn toàn không chỉ là sản phẩm nhất
thời của tư duy toả sáng, mà là kết quả tất yếu trong suốt cuộc đời hoạt động của
Bác được tích luỹ lại, trên cơ sở thấy rõ vai trò của con người. Theo Bác, phàm
tất cả những cái gì thuộc về đời sống xã hội cũng đều do con người làm ra, vì
con người và được thực hiện bởi con người với những động cơ, mục đích và phương
pháp khác nhau. Động cơ, mục đích và phương pháp ấy, trước hết là do đạo đức tự
điều chỉnh để hướng con người đạt tới các giá trị chân, thiện, mỹ, tránh được
cái xấu xa vô đạo… Vì vậy, đạo đức luôn là gốc của con người nói chung và theo
đó đạo đức cách mạng là gốc của những chiến sĩ cách mạng, là gốc của cán bộ, đảng
viên và của cả nhân dân lao động. Nhờ có đạo đức cách mạng mà người chiến sĩ
cách mạng có thể vượt qua mọi khó khăn gian khổ, thậm chí còn bị tù đầy, tra tấn,
hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ do cách mạng yêu cầu.Vì vậy sự nghiệp cách mạng
luôn yêu cầu người chiến sĩ cách mạng phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và
thực hành đạo đức, nêu cao tấm gương đạo đức như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong… Những điều giáo huấn này đã được Bác nhấn mạnh nhiều lần
trong các bài viết, bài nói của Người. Ví dụ: Bác nói đến tư cách một người
cách mệnh ở trang mở đầu của tác phẩm “Đường Cách Mệnh” (xuất bản năm 1927).
Bác nói rõ đạo đức là hạt nhân của người chiến sĩ cách mạng, vào ngày 27-1-1956,
ở lớp nghiên cứu chính trị khoá I tại trường đại học nhân dân Việt Nam (nay là
Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội): “Theo ý riêng của tôi, thì hạt nhân ấy
có thể tóm tắt trong 11 chữ: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân
dân”.
Nói
tóm tắt, “minh minh đức” là chính tâm, “thân dân” là phục vụ nhân dân, đặt lợi
ích của nhân dân lên trên hết.
Nói
một cách khác , tức là “Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”[3].
Trong
cả bản Di chúc lần đầu (viết năm 1965) và bản Di chúc lần cuối (viết năm 1969),
Bác vẫn nhắc lại cho toàn Đảng và toàn dân ta cái hạt nhân ấy – cái then chốt
nhất ấy, nhưng lần này Bác nói rất rõ, thật cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm y
như Bác đang trực tiếp cầm tay chỉ việc cho đàn con cháu vậy: “Đảng ta là một đảng
cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân
dân”[4]. Phân tích đoạn Di
chúc này sẽ thấy rõ điều đó:
“Đảng
ta là một đảng cầm quyền” nghĩa là Đảng ta đã có chính quyền cách mạng trong
tay – một cơ quan quyền lực tối cao, chính thống để tổ chức toàn dân giữ gìn
giang sơn, đất nước, giữ vững độc lập tự chủ, giữ vững chế độ và xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở nước ta… Nhưng nội dung và vị thế của "Đảng cầm
quyền", như Bác đã nhiều lần cảnh báo, cũng chứa đựng trong nó nhiều nguy
cơ nghiêm trọng, mà trực tiếp, lâu dài lớn dần và khó khắc phục nhất là sự xuống
cấp, thoái hoá biến chất dần dần về phẩm chất đạo đức cách mạng sang mặt đối lập
của nó là chủ nghĩa cá nhân, dẫn tới sự suy thoái về chính trị, tư tưởng của một
bộ phận đảng viên, cán bộ có chức có quyền trong hệ thống chính trị, trước sự
cám dỗ rất khó vượt qua của mặt trái quyền lực và lợi ích vật chất đang từng
ngày đòi hỏi được nâng cao vượt quá xa khả năng đáp ứng của một nền kinh tế vẫn
còn nghèo nàn, lạc hậu và âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch…
Nếu nguy cơ của thứ giặc nội xâm này không được khắc phục, loại trừ thì tất yếu
sẽ dẫn tới nguy cơ lớn hơn, nghiêm trọng nhất là làm mất dần niềm tin yêu của
nhân dân đối với Đảng, với Nhà nước, với chế độ. Bác đã nói rõ nguy cơ này khi
Người chỉ ra rằng:
“-
Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Nghĩa là đứng
trước nguy cơ “lật thuyền cũng là dân”[6] mà nhiều vĩ nhân đời trước
đã cảnh tỉnh. Với những ý nghĩa ấy, “Đảng ta là một đảng cầm quyền” cũng còn là
nguyên nhân bên trong đòi hỏi mỗi đảng viên và cán bộ phải “thật sự thấm nhuần
đạo đức cách mạng”, chống chủ nghĩa cá nhân. Mỗi cán bộ, đảng viên đã nêu cao tấm
gương đạo đức cách mạng thì nhất định toàn dân sẽ tin tưởng, noi theo, một lòng
một dạ đi theo Đảng, đem hết công sức và tài trí đưa cách mạng đến thắng lợi.
Đây chính là hạt nhân, là vấn đề then chốt nhất đảm bảo cho cách mạng thành
công. Sự thắng lợi của cách mạng nước ta từ khi có Đảng ta lãnh đạo đến nay đã
chứng minh rõ quy luật đó.
Nhưng đạo đức cách mạng, trong tư tưởng
của Bấc, rất sâu sắc và rộng lớn, được thể hiện tập trung ở yêu cầu nhiều mặt của
hệ thống các chuẩn mực đạo đức (còn gọi là tiêu chuẩn, quy phạm, quy tắc đạo đức…)
với nhiều tầng bản chất từ trừu tượng đến cụ thể. Có cả những chuẩn mực đạo đức
cơ bản, rất sâu sắc, trừu tượng; lại có cả những chuẩn mực đạo đức rất cụ thể…
Hệ thống các chuẩn mực đạo đức cụ thể này chính là sự cụ thể hoá các chuẩn mực
đạo đức cơ bản, gắn liền với suy nghĩ và hành vi của con người, nên rất dễ hiểu,
dễ nhớ, dễ làm nhất. Do là sự cụ thể hoá của các chuẩn mực đạo đức cơ bản, trừu
tượng, nên khi đã thấm nhuần và thực hiện tốt các chuấn mực đạo đức cụ thể thì
cũng có nghĩa là đã đáp ứng được yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức cơ bản và
ngược lại. Xuất phát từ đặc điểm của tư duy và hành động của đại đa số nhân
dân, đảng viên và cán bộ nước ta, Bác đã kỳ công nghiên cứu và tổng kết thực tiễn
để chỉ ra hệ thống các chuẩn mực đạo đức cách mạng cụ thể ấy là cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Bác đã có bài viết chuyên về cần, kiệm, liêm,
chính để giải thích rõ yêu cầu của mỗi chuẩn mực. Nghiên cứu cách viết của Bác
về các chuẩn mực này sẽ thấy một điều thú vị - một sáng tạo rất tinh tế của
Bác: Khi nhằm giải thích rõ từng chuẩn mực thì Bác tách chúng bằng dấu phẩy(cần,
kiệm, liêm, chính), có khi có cả xuống dòng. Nhưng khi đòi hỏi phải nhận thức
và thực hiện các chuẩn mực đó một cách đồng bộ, chỉnh thể, liên thông (nghĩa là
không thể tách rời, khu biệt riêng lẻ từng
chuẩn mực) để hợp thành phẩm chất đạo đức cách mạng, thì Bác viết các chuẩn mực
ấy liền nhau, không đặt dấu phẩy giữa chúng (cần kiệm liêm chính, chí công vô
tư)[7]. Như vậy, thấm nhuần và
nêu cao tấm gương đạo đức “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” mới chỉ đạt được
một phẩm chất của đạo đức cách mạng. Để “thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”,
Bác còn yêu cầu “phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”
Nghĩa là suốt đời phục vụ nhân dân, dặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Bất
cứ cái gì có lợi cho dân phải hết sức làm, bất cứ cái gì có hại cho dân phải hết
sức tránh – “Tận trung với nước, tận hiếu
với dân”. Thấm nhuần và nêu cao tấm gương đạo đức này, cùng với “cần kiêm liêm
chính, chí công vô tư” mới được coi là “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”.
Tóm lại cái hạt nhân toả sáng – cái
then chốt nhất được Bác di chúc lại cho toàn đảng, toàn dân ta, mà trước hết
cho mỗi đảng viên và cán bộ là “thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” và
“phải xứng đáng… là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Bởi vì chỉ có
như vậy mới “thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng”, mới “xứng đáng là người
lãnh đạo” của nhân dân và mới có thể “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch” khi Đảng
ta đã trờ thành một đảng cầm quyền.
Để đền đáp lại “muôn vàn tình thân
yêu” và công ơn to lớn như trời, biển của Bác, toàn dân ta, muôn triệu trái tim
như một, đã xin thề quyết tâm thực hiện thành công những điều di chúc thiêng
liêng của người. Hơn 40 năm đã trôi qua, toàn Đảng, toàn dân ta, với quyết tâm
cao độ đã và đang phát huy tổng hợp cả tài năng, công sức và trí tuệ để thực hiện
tốt nhất lời thề son sắt của mình. Ở cõi vĩnh hằng chắc Bác đang vui mừng về những
thành tựu đã và đang đạt được của cách mạng nước ta – kết quả của việc thực hiện
về căn bản những điều mong muốn cuối cùng của Bác trong di chúc – Những điều mà
Bác chưa được chứng kiến thì nay đã trở thành hiện thực với những mức độ nhất định.
Tuy vậy, bên cạnh những thành tựu thật sự to lớn ấy vẫn còn những điều chắc là
cho đến nay Bác chưa hài lòng, mặc dù Bác đã chỉ rõ và cảnh báo khi Người còn sống.
Đó chính là những nguy cơ bên trong của một đảng cầm quyền vẫn hiện diện và
đang dần dần thách thức đối với Đảng ta và chế độ ta, trước những hiện tượng
thoái hoá, biến chất về đạo đức cách mạng, về chính trị tư tưởng… của một bộ phận
không nhỏ đảng viên và cán bộ, có cả cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, nhất
là từ khi đổi mới đất nước cho đến nay. Đảng ta đã nhận thức rất rõ nguy cơ nội
xâm nguy hiểm này, đã phân tích rõ những biểu hiện của nó trong các văn kiện của
Đảng và đã đề ra chủ trương, đường lối, giải pháp nhằm khắc phục những hiện tượng
đó. Ví dụ, Đảng ta đã xác định rõ “xây dựng và phát triển kinh tế là trọng tâm”
nhằm thực hiện điều mong muốn của Bác là xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh.
Còn “Xây dựng Đảng là then chốt” nhằm thực hiện mong muốn của Bác là phải giữ
gìn Đảng ta thật trong sạch” sao cho “mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” và “phải
xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”. Tiếp
theo những đường lối đúng đắn ấy, Bộ chính trị đã phát động cuộc vận động “học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân bắt đầu
từ ngày 3-2-2007. Hơn hai năm qua, cuộc vận động đã được thực hiện đúng hướng,
đã trở thành phong trào thi đua sôi nổi trên toàn quốc. Ngày càng nhiều cá nhân
và tập thể, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, xứng đáng là tấm gương điển
hình tiên tiến về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thực hành
tiết kiệm, chống lãng phí, quan liêu, tham nhũng... Cuộc vận động đang là niềm
hy vọng lớn của toàn Đảng và toàn dân ta.
Thực tiễn hơn 40 năm thực hiện Di chúc
của Bác đã thể hiện rõ sự kính yêu, tin tưởng và tình cảm thương nhớ khôn nguôi
của toàn Đảng, toàn dân ta đối với Người. Đồng thời cũng thể hiện ý chí quyêt
tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trong việc thực hiện những di chúc thiêng liêng
của Bác đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn 40 năm đã đi qua nhưng vẫn thấy Bác hiện
diện đồng hành cùng dân tộc, cùng mỗi người dân Việt Nam!
[1] Ngày 14-5-1965, Bác viết
phần cuối bản di chúc từ 14h đến 16h, vì buỏi sáng bác đi thăm hợp tác xã nông
nghiệp phương Đông ở Từ Liêm, sau đó vào 10h Bác họp Bộ chính trị. Ngày
12-5-1969, Bác sửa phần mở đầu và phần viết thêm ở bản 1968 vào lúc 15h, vì buổi
sáng Bác họp bộ chính trị.
[2] Ban tư tưởng – văn hoá
Trung ương: Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh…, Nxb
CTQG, Hà Nội – 2007, tr 89
[4] Khu di tích Hồ Chí Minh tại
phủ chủ tịch: Bác Hồ viết tài liệu Tuỵệt đối bí mật, Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội – 2008, tr 27 và 47.
[6] Nguyễn Trãi đã giải thích
rõ câu này của Tuân Tử (Tuân Huống thời xuân thu chiến quốc của Trung Quốc cổ đại)
để cảnh tỉnh thái tử con vua Lê Lợi
[7] Ở cả hai bản di chúc (năm
1965 và năm 1969) Bác đều viết các chuẩn mực này liền nhau (cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét