Thứ Hai, 20 tháng 2, 2017

Giá trị thực tiễn của tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Đầu năm 1969, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang gần đến ngày toàn thắng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đang trên đà phát triển. Nhưng trong đó đã xuất hiện không ít số cán bộ, đảng viên chủ quan, ngại khó, ngại hy sinh gian khổ, muốn xả hơi… và nguy hiểm nhất là khuynh hướng lợi dụng tình hình thuận lợi và cả khó khăn của cách mạng để mưu cầu danh, lợi cho cá nhân, gia đình, ê kíp… Những diễn biến tiêu cực này ảnh hưởng không nhỏ tới tinh thần quyết tâm “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”[1] của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Để khắc phục những hiện tượng xuống cấp này về mặt đạo đức và để thiết thực kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1969), chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đăng trên Báo Nhân dân số 5409, ngày 3/2/1969.

          Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân là tác phẩm chuyên luận cuối cùng của chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng. Tác phẩm hàm chứa sự tổng kết giá trị lý luận và thực tiễn rất sâu sắc của Người về đạo đức. Ở tác phẩm này, trên cơ sở tổng kết lý luận đạo đức cách mạng và mặt đối lập của nó là chủ nghĩa cá nhân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tập trung phân tích sâu về giá trị thực tiễn của đạo đức cách mạng. Đó là thực hiện nguyên tắc nói đi đôi với làm, nêu cao tấm gương thực hành đạo đức trong cuộc sống hàng ngày. Đây cũng là  mục đích chủ đạo của Người khi viết tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.
          Ngay ở đầu tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta”[2]. Nội dung của hai câu đầu này hàm dưỡng giá trị thực tiễn đích thực của đạo đức cách mạng với hai điểm mấu chốt:
          Một là: đạo đức nói chung và đạo đức cách mạng nói riêng chỉ có tác dụng, vai trò thiết thực khi mỗi người hay tập thể người tự điều chỉnh những hoạt động, hành vi của mình, trên các mặt của đời sống xã hội, cho phù hợp với yêu cầu của các chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy tắc, quy phạm) đạo đức. Sự điều chỉnh này được thực hiện thông qua tự nguyện, tự giác của  bản thân và dư luận xã hội, có thể còn kết hợp với sự điều chỉnh thông qua chế tài của luật pháp. Đây chính là giá trị thực tiễn của đạo đức – thực hành và nêu cao tấm gương đạo đức cho người khác nói theo, bắt chước. Vì vậy đạo đức sẽ trở thành vô nghĩa, mất giá… nếu con người ta chỉ học đạo đức chứ không thực hành đạo đức – không điều chỉnh hành vi của mình theo yêu cầu của các chuẩn mực đạo đức. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, việc nghiên cứu, học tập đạo đức mà không làm theo đạo đức, thì học đạo đức cũng vô ích và thường có hại. Luận điểm này lại xuất phát từ một luận điểm chung hơn của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Lý luận cốt để áp dụng vào thực tiễn. Chỉ học thuộc lòng để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích”[3]. Phát huy giá trị thực tiễn của đạo đức cách mạng – thực hành và nêu cao tấm gương đạo đức của tất cả mọi người, trước hết là của đội ngũ đảng viên và cán bộ, đã được tổ chức thành phong trào xã hội sâu rộng dưới sự lãnh đạo của Đảng ta trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam trước đây, chính là một yếu tố góp phần quyết định sự thành công của cách mạng nước ta.
          Hai là: Để mọi người đều ra sức thực hành đạo đức cách mạng, thực hiện một xã hội đạo đức, thì yêu cầu trước hết, có tính quy luật - như một nguyên tắc phương pháp luận “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, là thế hệ trước phải làm gương cho thế hệ sau; ông bà, cha mẹ phải nêu gương cho đàn con cháu; anh, chị phải nêu gương cho các em; đoàn viên thanh niên phải nêu gương cho thiếu niên, nhi đồng; thầy cô giáo phải nêu gương cho học sinh; sĩ quan phải nêu gương cho binh sĩ; đảng viên phải nêu gương cho quần chúng và quan trọng hơn cả là cán bộ cấp cao phải nêu gương cho cán bộ cấp dưới… Đó cũng là phương thức tốt nhất, có hiệu quả trong sự nghiệp đào tạo và phát triển toàn diện con người cả về Đức, Trí, Thể, Mỹ… Ngược lại trên phạm vi xã hội, nếu không đảm bảo nguyên tắc này thì đạo đức, xã hội sẽ xuống cấp, gây trở ngại lớn trong sự nghiệp đào tạo con người mới và đấu tranh thống nhất cũng như trong xây dựng và phát triển đất nước.
          Tấm gương đạo đức lớn nhất, phát huy giá trị đạo đức mạnh nhất, hữu dụng nhất, mà tất cả mọi người đều nhìn vào đó để làm theo là tấm gương thực hành đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là tấm gương đạo đức của cán bộ lãnh đạo trong các cơ quan Đảng, nhà nước và đoàn thể quần chúng, càng cao cấp càng có tác dụng quyết định. Đây cũng chính là đối tượng mà chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung giáo dục trong tác phẩm. Người thường nói một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Người chỉ rõ: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
          Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Đồng chí ta nhiều người đã làm được, nhưng vẫn còn những người hủ hoá. Đảng có trách nhiệm gột rửa cho những đồng chí đó.
          Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã”[4].
          Trong tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hàng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu và sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh đũng, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích vẻ vang”[5]. Ở những bài nói và viết trước đây, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu gương sáng của rất nhiều cán bộ, đảng viên ấy. Họ là những cán bộ lãnh đạo tiền bối, cao cấp, những chiến sĩ tiêu biểu của Đảng như: Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyên Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Lý Tự Trọng v.v… Năm 1960, nhân kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu dẫn chứng điển hình về tấm gương đạo đức sáng ngời của 31 đồng chí Uỷ viên ban chấp hành Trung ương khoá III[6]. Trong hai cuộc kháng chiến chống bọn thực dân đế quốc xâm lược Pháp, Mỹ, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu gương điển hình về thực hành đạo đức cách mạng của hàng chục nghìn cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trên cả nước. Người tôn vinh họ “là những bông hoa tươi thắm của chủ nghĩa anh hùng cách mạng”[7] Việt Nam… Tất cả những tấm gương thực hành đạo đức cách mạng mẫu mực ấy, trong lịch sử cách mạng nước ta, ở mỗi thời kỳ, đều được toàn dân và toàn quân ta tuyệt đối tin tưởng, quyết tâm phấn đấu noi theo. “Chúng ta lấy tinh thần để chiến thắng vật chất” là ở chỗ đó. Sức mạnh vô địch của chúng ta cũng được tạo ra từ chỗ đó. Nhờ đó mà Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta “làm cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến lần thứ nhất thắng lợi, và ngày nay vừa chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội”[8] đang trên đà thắng lợi. Đây chính là giá trị thực tiễn sâu sắc, to lớn về nêu cao đạo đức cách mạng được chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết ở ngay câu vào đề của tác phẩm.
          Mặt đối lập của đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, chủ nghĩa cá nhân là trái với đạo đức cách mạng, tất cả cái gì trái với đạo đức cách mạng đều là chủ nghĩa cá nhân. Người nhấn mạnh, chủ nghĩa cá nhân là một thứ vi trùng độc hại, là kẻ địch ở trong lòng, là bệnh mẹ sinh ra trăm thứ bệnh nguy hiểm khác. Vì vậy rèn luyện đạo đức cách mạng phải gắn liền với quét sạch chủ nghĩa cá nhân và phải quét sạch chủ nghĩa cá nhân mới nâng cao được đạo đức cách mạng. Để giáo dục, hướng dẫn cán bộ, đảng viên, mà trước hết là những cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, quét sạch được chủ nghĩa cá nhân, nâng cao được đạo đức cách mạng, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát bản chất của chủ nghĩa cá nhân: “Việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người”, mà chỉ muốn “mọi người vì mình”[9] và những biểu hiện của nó. Đó là 10 hành vi cụ thể dưới đây:[10]
1.     Ngại gian khổ, khó khăn
2.     Sa vào tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa
3.     Tham danh, trục lợi, thích địa vị quyền hành
4.     Tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng
5.     Độc đoán, chuyên quyền, xa rời quần chúng, xa rời thực tế
6.     Mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh.
7.     Không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập
8.     Mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật
9.     Kém tinh thần trách nhiệm
10.             Không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước.
Theo chủ tịch Hồ Chí Minh, những cán bộ, đảng viên nào đã sa vào chủ nghĩa cá nhân thì đánh mất đạo đức cách mạng, “Làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”[11], nguy hiểm nhất là làm sói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng, với cách mạng. Khi đã sa vào chủ nghĩa cá nhân thì cán bộ, đảng viên có chức vụ càng cao, tác hại càng lớn. Vì chủ nghĩa cá nhân “là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội”[12].
Cuối cùng, chủ tịch Hồ Chí Minh kết luận: “mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của cách mạng, của Đảng, của  nhân dân lên trên hết, trước hết. Phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng”[13]. Người khẳng định: “Đó là một cách thiết thực để kỷ niệm ngày thành lập Đảng ta”[14].



[1] Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội – 1995, tập 12, Thơ chúc mừng xuân 1969, tr 426.
[2] Sđd, tập 12, tr 438
[3] Sđd, tập 5, tr 237-238
[4] Sđd, tập 5, Bài nói chuyện trong buổi lễ bế mạc Hội nghị cán bộ của Đảng lần thứ sáu (ngày 18/1/1949), tr 552
[5] Sđd, tập 12, tr 438
[6] Sđd, tập 10, tr 3
[7] Sđd, tập 12, tr 438
[8] Sđd, tập 12, tr 438
[9] Sđd, tập 12, tr 438
[10] Sđd, tập 12, tr 438-439
[11] Sđd, tập 12, tr 439
[12] Sđd, tập 9, tr 292
[13] Sđd, tập 12, tr 439
[14] Sđd, tập 12, tr 439

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...