Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Đồng chí Nguyễn Văn Linh với thế hệ trẻ Việt Nam


Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, với niềm tin tất thắng vào sự thành công của cách mạng nước nhà, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (Bác Hồ) và Đảng cộng sản Việt Nam; với bản chất thông minh, ham học hỏi, tác phong lãnh đạo rất cụ thể, cẩn trọng, sâu sát quần chúng, năng động sáng tạo, kiên định lập trường, đầy tinh thần trách nhiệm... đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đem hết trí tuệ, đạo đức, tài năng tham gia lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng chí đã đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau, có cả những thời kỳ "ba chìm bảy nổi"[1], và cao nhất là đảm nhận trọng trách Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam khoá VI (1986-1971). Những quan điểm sáng tạo của Đồng chí về đổi mới đất nước cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Sự thành công rực rỡ trong quá trình đổi mới đất nước cho đến nay đã khắc đậm dấu ấn đồng chí Nguyễn Văn Linh. Lịch sử của công cuộc đổi mới, lịch sử dân tộc ta mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn của Đồng chí như là một trong những người đi đầu và và có công đầu đưa đất nước ta tiến vào một kỷ nguyên phát triển mới thực hiện lời thề son sắt của cả dân tộc ta trong việc thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
          Dù ở bất kỳ cương vị lãnh đạo nào trong Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng luôn luôn nhận thức sâu sắc và đề cao vị trí, vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong cách mạng, coi họ vừa là động lực to lớn, ở cả hiện tại và tương lai, vừa là mục tiêu của cách mạng. Đồng thời, Đồng chí cũng luôn biết phát huy vị trí, vai trò to lớn của thế hệ trẻ bằng những chủ trương, đường lối, giải pháp đúng đắn, khoa học, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử nước nhà.
          Bước đầu vào tuổi học đường (năm học 1925-1926), cậu học trò Nguyễn Văn Cúc (tên đầu của đồng chí Nguyễn Văn Linh) đã cùng các bạn bàn bạc với nhau về tương lai sao cho xứng đáng với thanh niên Việt Nam, với con Lạc, cháu Hồng. Cậu Cúc đã cùng nhiều bạn hồ hởi tham gia phong trào đọc và tuyên truyền các sách báo cách mạng, nhất là các bài viết của Nguyễn Ái Quốc, do tổ chức Thanh niên Trường Bonnan[2] tổ chức. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng với sự mẫn tiệp và tích cực tham gia phong trào, cậu Cúc đã được kết nạp vào Học sinh đoàn do Chi hội Thanh niên ở Trường Bonnan thành lập. Cũng từ đây, ý thức về bổn phận của người thanh niên đối với tổ quốc, với nhân dân ngày càng sâu sắc trong tâm khảm của Nguyễn Văn Cúc. Dưới sự hướng dẫn của tổ chức, anh thanh niên Nguyễn Văn Cúc đã cùng với bạn bè tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh của thợ thuyền thành phố Hải Phòng.

          Hưởng ứng phong trào đấu tranh, vào ngày 1-5-1930, Nguyễn Văn Cúc đã cùng các bạn rải truyền đơn trên đường phố Hải Phòng. Gặp cảnh binh bất ngờ nên các anh đã bị bắt đưa về giam ở sở mật thám Hải Phòng. Trực tiếp chứng kiến cảnh tra tấn dã man của bọn cai tù đối với các chiến sĩ cách mạng, nhưng anh Cúc không hề run sợ. Anh bị toà án thực dân kết án 18 năm tù đưa về giam ở khám lớn Hải Phòng. Sau đó, Nguyễn Văn Cúc và nhiều chiến sĩ cách mạng bị đầy đi Côn Đảo.
          Tuổi trẻ của Nguyên Văn Cúc gắn liền với phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh Hải Phòng. Đây là cơ sở thực tiễn đấu tranh đầu tiên để Nguyễn Văn Cúc hiểu sâu sắc sức mạnh của giới trẻ học đường, tạo điều kiện thuận lợi để anh phát huy hơn nữa vị trí và sức mạnh của giới trẻ trong quá trình tham gia lãnh đạo cách mạng...
          Ngày 23-9-1945, Nam Bộ kháng chiến. Đồng chí Nguyễn Văn Cúc, thường được gọi là anh Mười Cúc, từ Côn Đảo trờ về, được xứ uỷ bổ sung vào đội ngũ lãnh đạo phong trào cách mạng ở nội thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Vào tháng 4-1946, tại Hội nghị cán bộ Đảng Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng chí Mười Cúc được cử làm bí thư thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn. Trên cương vị mới, đồng chí Mười Cúc có điều kiện thuận lợi để tuyên truyền, giáo dục, đào tạo đội ngũ thế hệ trẻ của thành phố. Đồng chí đã họp bàn với Thành uỷ cử cán bộ về tăng cường cho các đoàn thể quần chúng trong thành. Trong đó Đồng chí quan tâm nhiều tới tổ chức thanh niên, nhất là vận động, tổ chức tuổi trẻ học đường tích cực tham gia phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và tham gia vào bưng biền kháng chiến. Công tác tuyên truyền, giáo dục được Đồng chí đưa lên hàng đầu. Đồng chí đã trực tiếp lãnh đạo hai tờ báo Cảm tử và Chống xâm lăng, tờ Chống xâm lăng do Đồng chí trực tiếp phụ trách. Đồng chí viết bài cho cả hai tờ báo để tuyên truyền, giáo dục quần chúng và cho học sinh, sinh viên về đường lối kháng chiến của Đảng và chống những luận điệu xuyên tạc của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Trên cơ sở đó mà mở rộng các tổ chức đoàn thể cứu quốc như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... Những tờ báo này trở thành vũ khí sắc bén của Đảng, món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với nhân dân, nhất là đối với giởi trẻ là thanh niên, sinh viên và công nhân, nông dân...
          Đồng thời với công tác mở rộng tuyên truyền, đồng chí Mười Cúc còn cử một số Thành uỷ viên trực tiếp nắm các đoàn thể quần chúng như Công đoàn, đoàn thanh niên... Đồng chí còn đi sâu, đi sát xuống tận cơ sở để nắm bắt tình hình, kịp thời động viên, khuyến khích và uốn nắn những sai sót trong phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh và sinh viên. Nhờ đó phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh và sinh viên trong thành phố, đô thị, năm 1950, phát triển mạnh. Ngày 9-1-1950 diễn ra cuộc bãi khoá của hơn 2000 học sinh, sinh viên các trường Gia Long, Petrus Ký, Nguyễn Văn Khuê, Lê Bá Cang... nhằm chống lại thoả hiệp Bảo Đại - Ôrion về thành lập chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Bọn chúng đã đàn áp dã man phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên. Chúng đã giết hại và làm bị  thương nhiều người, trong đó có Trần Văn Ơn và một nữ sinh người Hoa là Trần Bội Cơ. Theo dõi sát tình hình này, đồng chí Mười Cúc đã kịp thời chỉ đạo cho các đoàn thể quần chúng tiến hành vận động nhân dân xuống đường đấu tranh tố cáo tội ác của kẻ thù và đòi các quyền dân sinh, dân chủ. Hơn 10 vạn người xuống đường đưa tang Trần Văn Ơn và Trần Bội Cơ. Hơn 10 vạn người nữa đứng hai bên đường nơi đám tang đi qua... Một phong trào quần chúng, nhất là toàn thể học sinh, sinh viên ở các trường trong thành phố và đô thị, sôi sục xuống đường đấu tranh phản đối đàn áp học sinh, sinh viên. Có những ngày hơn nửa triệu người với nhiều tầng lớp đã xuống đường đấu tranh. Ngày 9-1-1950 trở thành ngày đấu tranh, biểu dương lực lượng của học sinh, sinh viên trong toàn quốc.
          Tháng 2-1951, Đại hổi Đảng toàn quốc lần thứ hai thành công. Đảng ta với tên mới là Đảng lao động Việt Nam ra công khai lãnh đạo cuộc kháng chiến. Để phù hợp với tình hình mới của giai đoạn tổng phản công, Trung ương quyết định giải thể xứ uỷ Nam bộ, thành lập Trung ương Cục miền Nam. Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương cục. Đồng chí Mười Cúc được chỉ định làm Bí thư Đặc khu uỷ. Ngày 5-9-1954, Bộ chính trị đã họp hội nghị nhận định tình hình đề ra nhiệm vụ của toàn Đảng và nhiệm vụ của Đảng bộ miền Nam. Bộ chính trị quyết định giải thể Trung ương cục, lập lại Xứ uỷ Nam Bộ. Giữa năm 1955, Xứ uỷ Nam bộ được kiện toàn, thành lập văn phòng và các ban chuyên môn: Mặt trận, Phụ vận, Thanh vận... Đồng chí Mười Cúc là Thường vụ xứ uỷ kiêm bí thư khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn. Sau đó theo chỉ thị của Bộ chính trị: các tổ chức đảng và đoàn thanh niên phải hết sức bí mật, các tổ chức quần chúng khác tạm thời giải tán. Hội viên của các tổ chức này tìm cách tham gia và các tổ chức hợp pháp, công khai...
          Ngày 17-7-1955, Diệm tuyên bố công khai không có Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 26-10-1955, Diệm tuyên bố thành lập "Nhà nước Việt Nam cộng hoà". Chúng mở nhiều chiến dịch "Tố cộng", đàn áp đẫm máu đảng viên cộng sản và nhân dân ta. Với chiến lược "tát nước bắt cá", chúng giám sát từng nhà, từng người thông qua các hình thức liên gia, trương khẩu hiệu "Đoàn kết quốc gia, bài trừ cộng sản", lập ra các tổ chức "phụ nữ liên đới", "Thanh niên cộng hoà", "Phong trào cách mạng quốc gia"... Tình hình ấy đặt ra cho xứ uỷ và khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn phải có nhiều hình thức đấu tranh mới cho phù hợp. Đồng chí Mười Cúc cùng Ban chấp hành xứ uỷ và các tổ chức đảng chuyển sang hoạt động bí mật với giải pháp "Bám trụ, cắm sâu" đồng thời tranh thủ các hình thức hợp pháp để bảo toàn và phát triển lực lượng. Đồng chí Mười Cúc cùng ban lãnh đạo xứ uỷ cũng bám trụ trong nội thành Sài Gòn. Vào tháng 6-1957, đồng chí Mười Cúc được trung ương cử làm Quyền bí thư xứ uỷ Nam Bộ thay đồng chí Phạm Hữu Lầu bị bệnh mất.
          Những năm 1957 đến 1959, Chính quyền Diệm điên cuồng khủng bố, đàn áp đẫm máu chiến sĩ và đồng bào ta. Chúng cho thành lập các "Khu trù mật", ra đạo "luật 10/1959", thành lập "Toà án quân sự đặc biệt", lê máy chém đi khắp nơi chém giết những đảng viên và quần chúng cách mạng. Cách mạng miền Nam đi vào thoái trào: Lượng đảng viên giảm sút nhiều, nhiều cơ sở tan vỡ, nhiều cán bộ bị bắt, bị giết... Đồng chí Mười Cúc cùng Ban chấp hành xứ uỷ đã kịp thời đề ra và thực hiện các biện pháp khắc phục: Điều đồng chí Võ Văn Kiệt về làm Bí thư khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn; bổ sung cán bộ cho cấp uỷ khu, tỉnh vầ huyện, xã; mở lớp bồi dưỡng cán bộ lấy tên là "Lớp học rừng xanh"; xây dựng thêm khu ven đô (vùng ven) để làm bàn đạp đi về...
          Sau nghị quyết 15 (7-1959) của Trung ương, cách mạng miền Nam chính thức chuyển sang đấu tranh vũ trang giành chính quyền. Được sự chuẩn bị tích cực từ trước, đồng chí Mười Cúc cùng các xứ uỷ viên đã lãnh đạo nhân dân miền Nam vùng lên đồng khởi thắng lợi. Qua hai đợt "Đồng khởi 1" và "Đồng khởi 2", đồng chí Mười Cúc đã rút ra kết luận về quy luật của cách mạng miền Nam: "Hai chân" (Chính trị và quân sự), "Ba mũi giáp công" (chính trị, quân sự, binh vận) và "ba vùng chiến lược" (rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành thị). Trong những chiến lược đấu tranh này có sự đóng góp to lớn của lớp trẻ miền Nam trong các cao trào địch vận, giết ác ôn, tuổi trẻ học đường đấu tranh đòi hoà bình, tự do, dân chủ...
          Đầu tháng 9 năm 1960, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba thành công tốt đẹp. Để tích cực chấp hành Nghị quyết của Đại Hội về cách mạng miền Nam, đồng chí Nguyễn Văn Cúc, lúc này đã lấy tên là Nguyễn Văn Linh, đã cùng xứ uỷ trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị cho sự ra đời của Mặt trận dân tộc giải phòng miền Nam Việt Nam. Ngày 20-12-1960, Mặt trận này đã được thành lập nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân yêu nước đấu tranh đánh đổ chế độ thống trị của Mỹ và Nguỵ quyền tiến tới thống nhất nước nhà. Tháng 1 năm 1961, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương quyết định giải thể xứ uỷ Nam Bộ, thành lập lại Trung ương Cục miền Nam. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được chỉ thị làm Bí thư Trung ương cục. Trên cương vị mới, Bí thư Nguyễn Văn Linh đã có thêm điều kiện quan tâm tới thế hệ trẻ miền Nam, trước hết là tầng lớp học sinh, sinh viên ở các khu đô thị. Tháng 10/1961, Hội nghị lần thứ nhất Trung ương Cục, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã thống nhất nhiệm vụ trước mắt là phục hồi lại các tổ chức quần chúng: Nông hội giải phóng, Công hội giải phóng, Phụ nữ giải phóng, Thanh niên và trí thức yêu nước... Phong trào đấu tranh chống Mỹ - Nguỵ không ngừng phát triển, lực lượng ngày càng mạnh. Đặc biệt là phong trào đấu tranh của tầng lớp trẻ ngày càng quyết liệt.
          Tháng 12-1963, Ban chấp hành Trung ương ra Nghị quyết 9. Trung ương Cục đã cụ thể hoá Nghị quyết 9 của Trung ương bằng lãnh đạo chủ động đẩy mạnh cuộc tiến công kết hợp Hai chân với Ba mũi giáp công trên cả Ba vùng chiến lược. Đồng chí Nguyễn Văn Linh "đặc biệt chú ý tới phong trào cách mạng của học sinh - sinh viên, coi đó là lực lượng nòng cốt, là xung kích trong các phong trào cách mạng ở đô thị"[3]. Đồng chí đã phân tích rõ những đặc thù của tầng lớp này: "Lực lượng học sinh - sinh viên đi theo cách mạng trước hết từ nhận thức lý tưởng, bằng tình yêu quê hương đất nước, bằng các hiện tượng phản diện của xã hội mà dần dần thấu hiểu bản chất của Mỹ - Nguỵ và thông qua đấu tranh mà học giác ngộ cách mạng.Do vậy, các đồng chí cần phải biết nghiên cứu nội dung tuyên truyền vận động học sinh - sinh viên, phải biết tập hợp họ bằng các phong trào cách mạng, bằng các khẩu hiệu từ thấp đến cao"[4]. Ví dụ: đấu tranh đòi dân sinh dân chủ ở nhà trường, xã hội; chống chiến tranh; chống bắt lính, phong trào xã hội từ thiện, cứu tế, cứu đói; phong trào du lịch giao lưu văn hoá... Qua đó để họ thâm nhập, gần gũi quần chúng, cảm thông yêu thương quần chúng, thấy được chính nghĩa cách mạng, căm thù chế độ Mỹ - Nguỵ quyết tâm đi theo cách mạng đánh đổ kẻ thù... Đồng chí Nguyễn Văn Linh phân tích thêm: "Lực lượng học sinh - sinh viên có ưu điểm là sôi nổi bồng bột nhưng lại thiếu cẩn trọng. Nếu các đồng chí không lưu ý điều đó thì có khi xây dựng cơ sở mất ba năm, nhưng phơi lưng lộ liễu sẽ bị địch đánh ta rã chỉ trong một giờ"[5]. Vì vậy, phải tuân theo nguyên tắc "Bí mật ngăn cách". Cần theo sát phong trào đấu tranh của học sinh - sinh viên để uốn nắn kịp thời và phát hiện, bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, cho kháng chiến...
          Năm 1964, Trung ương Đảng cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, uỷ viên bộ chính trị, vào Nam trực tiếp phụ trách Trung ương cục, Đồng chí Nguyễn Văn Linh vẫn làm Bí thư Trung ương cục kiêm phụ trách khu uỷ Sài Gòn - Gia Định. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Nguyễn Văn Linh, theo đà thắng lợi ngày càng lớn của đấu tranh quân sự, phong trào đấu tranh của học sinh - sinh viên cũng diễn ra liên tục với khẩu hiệu: "Mỹ cút về nước", "chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam". Cuộc đấu tranh còn mở rộng sang lĩnh vực bảo vệ văn hoá dân tộc, chống nọc độc văn hoá Mỹ, chống đàn áp tôn giáo... Cuộc đấu tranh của học sinh - sinh viên đã cuốn hút nhiều tầng lớp xã hội khác tham gia như công nhân, nông dân, phụ nữ, trí thức và các tín đồ tôn giáo...


[1] Chương trình viết tiểu sử các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước: Nguyễn Văn Linh tiểu sử, Nxb CTQG - 2006, tr 227.
[2] Trường Bonnan là trường tiểu học (ở địa điểm nay là Trường trung học phổ thông Ngô Quyền, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng), Nguyễn Văn Cúc và học năm đầu ở đây.
[3] Sđd, tr 173
[4] Sđd, tr 173 - 174
[5] Sđd, tr 174

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...