Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, với niềm tin tất thắng vào sự
thành công của cách mạng nước nhà, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh (Bác Hồ) và Đảng cộng sản Việt Nam; với bản chất thông minh, ham
học hỏi, tác phong lãnh đạo rất cụ thể, cẩn trọng, sâu sát quần chúng, năng động
sáng tạo, kiên định lập trường, đầy tinh thần trách nhiệm... đồng chí Nguyễn
Văn Linh đã đem hết trí tuệ, đạo đức, tài năng tham gia lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Đồng chí đã đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau, có cả những thời kỳ "ba
chìm bảy nổi"[1],
và cao nhất là đảm nhận trọng trách Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam khoá VI
(1986-1971). Những quan điểm sáng tạo của Đồng chí về đổi mới đất nước cho đến
nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Sự thành công rực rỡ trong quá
trình đổi mới đất nước cho đến nay đã khắc đậm dấu ấn đồng chí Nguyễn Văn Linh.
Lịch sử của công cuộc đổi mới, lịch sử dân tộc ta mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn
của Đồng chí như là một trong những người đi đầu và và có công đầu đưa đất nước
ta tiến vào một kỷ nguyên phát triển mới thực hiện lời thề son sắt của cả dân tộc
ta trong việc thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.
![]() |
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh |
Dù ở bất kỳ cương vị lãnh
đạo nào trong Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng luôn luôn nhận thức sâu sắc
và đề cao vị trí, vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong cách mạng, coi họ vừa
là động lực to lớn, ở cả hiện tại và tương lai, vừa là mục tiêu của cách mạng.
Đồng thời, Đồng chí cũng luôn biết phát huy vị trí, vai trò to lớn của thế hệ
trẻ bằng những chủ trương, đường lối, giải pháp đúng đắn, khoa học, sáng tạo,
phù hợp với yêu cầu thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử nước nhà.
Bước đầu vào tuổi học đường
(năm học 1925-1926), cậu học trò Nguyễn Văn Cúc (tên đầu của đồng chí Nguyễn
Văn Linh) đã cùng các bạn bàn bạc với nhau về tương lai sao cho xứng đáng với
thanh niên Việt Nam, với con Lạc, cháu Hồng. Cậu Cúc đã cùng nhiều bạn hồ hởi
tham gia phong trào đọc và tuyên truyền các sách báo cách mạng, nhất là các bài
viết của Nguyễn Ái Quốc, do tổ chức Thanh niên Trường Bonnan[2]
tổ chức. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng với sự mẫn tiệp và tích cực tham gia phong
trào, cậu Cúc đã được kết nạp vào Học sinh đoàn do Chi hội Thanh niên ở Trường
Bonnan thành lập. Cũng từ đây, ý thức về bổn phận của người thanh niên đối với
tổ quốc, với nhân dân ngày càng sâu sắc trong tâm khảm của Nguyễn Văn Cúc. Dưới
sự hướng dẫn của tổ chức, anh thanh niên Nguyễn Văn Cúc đã cùng với bạn bè tích
cực tham gia vào phong trào đấu tranh của thợ thuyền thành phố Hải Phòng.
Hưởng ứng phong trào đấu
tranh, vào ngày 1-5-1930, Nguyễn Văn Cúc đã cùng các bạn rải truyền đơn trên đường
phố Hải Phòng. Gặp cảnh binh bất ngờ nên các anh đã bị bắt đưa về giam ở sở mật
thám Hải Phòng. Trực tiếp chứng kiến cảnh tra tấn dã man của bọn cai tù đối với
các chiến sĩ cách mạng, nhưng anh Cúc không hề run sợ. Anh bị toà án thực dân kết
án 18 năm tù đưa về giam ở khám lớn Hải Phòng. Sau đó, Nguyễn Văn Cúc và nhiều
chiến sĩ cách mạng bị đầy đi Côn Đảo.
Tuổi trẻ của Nguyên Văn
Cúc gắn liền với phong trào đấu tranh của thanh niên, học sinh Hải Phòng. Đây
là cơ sở thực tiễn đấu tranh đầu tiên để Nguyễn Văn Cúc hiểu sâu sắc sức mạnh của
giới trẻ học đường, tạo điều kiện thuận lợi để anh phát huy hơn nữa vị trí và sức
mạnh của giới trẻ trong quá trình tham gia lãnh đạo cách mạng...
Ngày 23-9-1945, Nam Bộ
kháng chiến. Đồng chí Nguyễn Văn Cúc, thường được gọi là anh Mười Cúc, từ Côn Đảo
trờ về, được xứ uỷ bổ sung vào đội ngũ lãnh đạo phong trào cách mạng ở nội
thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Vào tháng 4-1946, tại Hội nghị cán bộ Đảng Sài Gòn -
Chợ Lớn, đồng chí Mười Cúc được cử làm bí thư thành uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn. Trên
cương vị mới, đồng chí Mười Cúc có điều kiện thuận lợi để tuyên truyền, giáo dục,
đào tạo đội ngũ thế hệ trẻ của thành phố. Đồng chí đã họp bàn với Thành uỷ cử
cán bộ về tăng cường cho các đoàn thể quần chúng trong thành. Trong đó Đồng chí
quan tâm nhiều tới tổ chức thanh niên, nhất là vận động, tổ chức tuổi trẻ học
đường tích cực tham gia phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp và tham gia
vào bưng biền kháng chiến. Công tác tuyên truyền, giáo dục được Đồng chí đưa
lên hàng đầu. Đồng chí đã trực tiếp lãnh đạo hai tờ báo Cảm tử và Chống xâm
lăng, tờ Chống xâm lăng do Đồng chí trực tiếp phụ trách. Đồng chí viết bài cho
cả hai tờ báo để tuyên truyền, giáo dục quần chúng và cho học sinh, sinh viên về
đường lối kháng chiến của Đảng và chống những luận điệu xuyên tạc của thực dân
Pháp và bè lũ tay sai. Trên cơ sở đó mà mở rộng các tổ chức đoàn thể cứu quốc
như Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc... Những tờ báo này trở thành vũ khí sắc
bén của Đảng, món ăn tinh thần không thể thiếu được đối với nhân dân, nhất là đối
với giởi trẻ là thanh niên, sinh viên và công nhân, nông dân...
Đồng thời với công tác mở
rộng tuyên truyền, đồng chí Mười Cúc còn cử một số Thành uỷ viên trực tiếp nắm
các đoàn thể quần chúng như Công đoàn, đoàn thanh niên... Đồng chí còn đi sâu,
đi sát xuống tận cơ sở để nắm bắt tình hình, kịp thời động viên, khuyến khích
và uốn nắn những sai sót trong phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh và
sinh viên. Nhờ đó phong trào đấu tranh của công nhân, học sinh và sinh viên
trong thành phố, đô thị, năm 1950, phát triển mạnh. Ngày 9-1-1950 diễn ra cuộc
bãi khoá của hơn 2000 học sinh, sinh viên các trường Gia Long, Petrus Ký, Nguyễn
Văn Khuê, Lê Bá Cang... nhằm chống lại thoả hiệp Bảo Đại - Ôrion về thành lập
chính phủ bù nhìn Bảo Đại. Bọn chúng đã đàn áp dã man phong trào đấu tranh của
học sinh, sinh viên. Chúng đã giết hại và làm bị thương nhiều người, trong đó có Trần Văn Ơn
và một nữ sinh người Hoa là Trần Bội Cơ. Theo dõi sát tình hình này, đồng chí
Mười Cúc đã kịp thời chỉ đạo cho các đoàn thể quần chúng tiến hành vận động
nhân dân xuống đường đấu tranh tố cáo tội ác của kẻ thù và đòi các quyền dân
sinh, dân chủ. Hơn 10 vạn người xuống đường đưa tang Trần Văn Ơn và Trần Bội
Cơ. Hơn 10 vạn người nữa đứng hai bên đường nơi đám tang đi qua... Một phong
trào quần chúng, nhất là toàn thể học sinh, sinh viên ở các trường trong thành
phố và đô thị, sôi sục xuống đường đấu tranh phản đối đàn áp học sinh, sinh
viên. Có những ngày hơn nửa triệu người với nhiều tầng lớp đã xuống đường đấu
tranh. Ngày 9-1-1950 trở thành ngày đấu tranh, biểu dương lực lượng của học
sinh, sinh viên trong toàn quốc.
Tháng 2-1951, Đại hổi Đảng
toàn quốc lần thứ hai thành công. Đảng ta với tên mới là Đảng lao động Việt Nam
ra công khai lãnh đạo cuộc kháng chiến. Để phù hợp với tình hình mới của giai
đoạn tổng phản công, Trung ương quyết định giải thể xứ uỷ Nam bộ, thành lập
Trung ương Cục miền Nam. Đặc khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn đặt dưới sự lãnh đạo trực
tiếp của Trung ương cục. Đồng chí Mười Cúc được chỉ định làm Bí thư Đặc khu uỷ.
Ngày 5-9-1954, Bộ chính trị đã họp hội nghị nhận định tình hình đề ra nhiệm vụ
của toàn Đảng và nhiệm vụ của Đảng bộ miền Nam. Bộ chính trị quyết định giải thể
Trung ương cục, lập lại Xứ uỷ Nam Bộ. Giữa năm 1955, Xứ uỷ Nam bộ được kiện
toàn, thành lập văn phòng và các ban chuyên môn: Mặt trận, Phụ vận, Thanh vận...
Đồng chí Mười Cúc là Thường vụ xứ uỷ kiêm bí thư khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn. Sau
đó theo chỉ thị của Bộ chính trị: các tổ chức đảng và đoàn thanh niên phải hết
sức bí mật, các tổ chức quần chúng khác tạm thời giải tán. Hội viên của các tổ
chức này tìm cách tham gia và các tổ chức hợp pháp, công khai...
Ngày 17-7-1955, Diệm
tuyên bố công khai không có Tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 26-10-1955,
Diệm tuyên bố thành lập "Nhà nước Việt Nam cộng hoà". Chúng mở nhiều
chiến dịch "Tố cộng", đàn áp đẫm máu đảng viên cộng sản và nhân dân
ta. Với chiến lược "tát nước bắt cá", chúng giám sát từng nhà, từng
người thông qua các hình thức liên gia, trương khẩu hiệu "Đoàn kết quốc
gia, bài trừ cộng sản", lập ra các tổ chức "phụ nữ liên đới",
"Thanh niên cộng hoà", "Phong trào cách mạng quốc gia"...
Tình hình ấy đặt ra cho xứ uỷ và khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn phải có nhiều hình thức
đấu tranh mới cho phù hợp. Đồng chí Mười Cúc cùng Ban chấp hành xứ uỷ và các tổ
chức đảng chuyển sang hoạt động bí mật với giải pháp "Bám trụ, cắm
sâu" đồng thời tranh thủ các hình thức hợp pháp để bảo toàn và phát triển
lực lượng. Đồng chí Mười Cúc cùng ban lãnh đạo xứ uỷ cũng bám trụ trong nội
thành Sài Gòn. Vào tháng 6-1957, đồng chí Mười Cúc được trung ương cử làm Quyền
bí thư xứ uỷ Nam Bộ thay đồng chí Phạm Hữu Lầu bị bệnh mất.
Những năm 1957 đến 1959,
Chính quyền Diệm điên cuồng khủng bố, đàn áp đẫm máu chiến sĩ và đồng bào ta.
Chúng cho thành lập các "Khu trù mật", ra đạo "luật
10/1959", thành lập "Toà án quân sự đặc biệt", lê máy chém đi khắp
nơi chém giết những đảng viên và quần chúng cách mạng. Cách mạng miền Nam đi
vào thoái trào: Lượng đảng viên giảm sút nhiều, nhiều cơ sở tan vỡ, nhiều cán bộ
bị bắt, bị giết... Đồng chí Mười Cúc cùng Ban chấp hành xứ uỷ đã kịp thời đề ra
và thực hiện các biện pháp khắc phục: Điều đồng chí Võ Văn Kiệt về làm Bí thư
khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn; bổ sung cán bộ cho cấp uỷ khu, tỉnh vầ huyện, xã; mở
lớp bồi dưỡng cán bộ lấy tên là "Lớp học rừng xanh"; xây dựng thêm
khu ven đô (vùng ven) để làm bàn đạp đi về...
Sau nghị quyết 15
(7-1959) của Trung ương, cách mạng miền Nam chính thức chuyển sang đấu tranh vũ
trang giành chính quyền. Được sự chuẩn bị tích cực từ trước, đồng chí Mười Cúc
cùng các xứ uỷ viên đã lãnh đạo nhân dân miền Nam vùng lên đồng khởi thắng lợi.
Qua hai đợt "Đồng khởi 1" và "Đồng khởi 2", đồng chí Mười
Cúc đã rút ra kết luận về quy luật của cách mạng miền Nam: "Hai chân"
(Chính trị và quân sự), "Ba mũi giáp công" (chính trị, quân sự, binh
vận) và "ba vùng chiến lược" (rừng núi, nông thôn đồng bằng và thành
thị). Trong những chiến lược đấu tranh này có sự đóng góp to lớn của lớp trẻ miền
Nam trong các cao trào địch vận, giết ác ôn, tuổi trẻ học đường đấu tranh đòi
hoà bình, tự do, dân chủ...
Đầu tháng 9 năm 1960, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ ba thành công tốt đẹp. Để tích cực chấp hành Nghị
quyết của Đại Hội về cách mạng miền Nam, đồng chí Nguyễn Văn Cúc, lúc này đã lấy
tên là Nguyễn Văn Linh, đã cùng xứ uỷ trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị cho sự ra
đời của Mặt trận dân tộc giải phòng miền Nam Việt Nam. Ngày 20-12-1960, Mặt trận
này đã được thành lập nhằm tập hợp mọi tầng lớp nhân dân yêu nước đấu tranh
đánh đổ chế độ thống trị của Mỹ và Nguỵ quyền tiến tới thống nhất nước nhà.
Tháng 1 năm 1961, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương quyết định giải thể xứ uỷ
Nam Bộ, thành lập lại Trung ương Cục miền Nam. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được chỉ
thị làm Bí thư Trung ương cục. Trên cương vị mới, Bí thư Nguyễn Văn Linh đã có
thêm điều kiện quan tâm tới thế hệ trẻ miền Nam, trước hết là tầng lớp học
sinh, sinh viên ở các khu đô thị. Tháng 10/1961, Hội nghị lần thứ nhất Trung
ương Cục, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã thống nhất nhiệm vụ trước mắt là phục hồi
lại các tổ chức quần chúng: Nông hội giải phóng, Công hội giải phóng, Phụ nữ giải
phóng, Thanh niên và trí thức yêu nước... Phong trào đấu tranh chống Mỹ - Nguỵ
không ngừng phát triển, lực lượng ngày càng mạnh. Đặc biệt là phong trào đấu
tranh của tầng lớp trẻ ngày càng quyết liệt.
Tháng 12-1963, Ban chấp
hành Trung ương ra Nghị quyết 9. Trung ương Cục đã cụ thể hoá Nghị quyết 9 của
Trung ương bằng lãnh đạo chủ động đẩy mạnh cuộc tiến công kết hợp Hai chân với
Ba mũi giáp công trên cả Ba vùng chiến lược. Đồng chí Nguyễn Văn Linh "đặc
biệt chú ý tới phong trào cách mạng của học sinh - sinh viên, coi đó là lực lượng
nòng cốt, là xung kích trong các phong trào cách mạng ở đô thị"[3].
Đồng chí đã phân tích rõ những đặc thù của tầng lớp này: "Lực lượng học
sinh - sinh viên đi theo cách mạng trước hết từ nhận thức lý tưởng, bằng tình
yêu quê hương đất nước, bằng các hiện tượng phản diện của xã hội mà dần dần thấu
hiểu bản chất của Mỹ - Nguỵ và thông qua đấu tranh mà học giác ngộ cách mạng.Do
vậy, các đồng chí cần phải biết nghiên cứu nội dung tuyên truyền vận động học
sinh - sinh viên, phải biết tập hợp họ bằng các phong trào cách mạng, bằng các
khẩu hiệu từ thấp đến cao"[4].
Ví dụ: đấu tranh đòi dân sinh dân chủ ở nhà trường, xã hội; chống chiến tranh;
chống bắt lính, phong trào xã hội từ thiện, cứu tế, cứu đói; phong trào du lịch
giao lưu văn hoá... Qua đó để họ thâm nhập, gần gũi quần chúng, cảm thông yêu
thương quần chúng, thấy được chính nghĩa cách mạng, căm thù chế độ Mỹ - Nguỵ
quyết tâm đi theo cách mạng đánh đổ kẻ thù... Đồng chí Nguyễn Văn Linh phân
tích thêm: "Lực lượng học sinh - sinh viên có ưu điểm là sôi nổi bồng bột
nhưng lại thiếu cẩn trọng. Nếu các đồng chí không lưu ý điều đó thì có khi xây
dựng cơ sở mất ba năm, nhưng phơi lưng lộ liễu sẽ bị địch đánh ta rã chỉ trong
một giờ"[5].
Vì vậy, phải tuân theo nguyên tắc "Bí mật ngăn cách". Cần theo sát
phong trào đấu tranh của học sinh - sinh viên để uốn nắn kịp thời và phát hiện,
bồi dưỡng cán bộ cho Đảng, cho kháng chiến...
Năm 1964, Trung ương Đảng
cử Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, uỷ viên bộ chính trị, vào Nam trực tiếp phụ
trách Trung ương cục, Đồng chí Nguyễn Văn Linh vẫn làm Bí thư Trung ương cục
kiêm phụ trách khu uỷ Sài Gòn - Gia Định. Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng
chí Nguyễn Văn Linh, theo đà thắng lợi ngày càng lớn của đấu tranh quân sự,
phong trào đấu tranh của học sinh - sinh viên cũng diễn ra liên tục với khẩu hiệu:
"Mỹ cút về nước", "chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam". Cuộc đấu
tranh còn mở rộng sang lĩnh vực bảo vệ văn hoá dân tộc, chống nọc độc văn hoá Mỹ,
chống đàn áp tôn giáo... Cuộc đấu tranh của học sinh - sinh viên đã cuốn hút
nhiều tầng lớp xã hội khác tham gia như công nhân, nông dân, phụ nữ, trí thức
và các tín đồ tôn giáo...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét