Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm tương đồng và khác biệt về con đường cách mạng Đông Dương, chủ yếu là cách mạng Việt Nam, giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản. Về bối cảnh ngoài nước – thường gọi là tình hình thế giới – được nổi bật bởi những sự kiện thuộc về phong trào cộng sản quốc tế đang lớn mạnh và nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới đã thành hiện thực – chiến tranh thế giới lần thứ hai mở màn.
Về đường lối cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng Đông Dương nói giữa Hồ Chí Minh với quốc tế cộng sản có những điểm tương đồng dưới đây:

Ảnh hưởng của một số tư tưởng Thiên chúa giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.


Là người biết kế thừa, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hoá nhân loại vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức bác ái cao cả của Thiên chúa giáo cũng như nhiều tư tưởng về con người của tôn giáo lớn nhất thế giới nay. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ thế giới quan duy tâm của Thiên chúa giáo. Tuy thế giới quan ấy đối lập với thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghĩa là đối lập với thế giới của Người, nhưng Người vẫn tôn trọng quyền tự to tín ngưỡng – theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi người nói chung và những tín đồ Thiên chúa giáo nói riêng. Người chỉ kiên quyết phê phán và chống lại sự lợi dụng tôn giáo, xuyên tạc tôn giáo của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch này chính là bọn thực dân, đế quốc xâm lược, chúng đã xuyên tạc và lợi dụng tôn giáo vào mục đích gây chiến tranh xâm lược các nước hòng bắt nhân dân các nước này cam chịu sự thống trị và bóc lột tàn bạo của chúng. Tất cả những vấn đề đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên hai mặt: Một mặt, Hồ Chí Minh kế thừa, đề cao những mặt tốt, vận dụng sáng tạo những mặt tốt ấy để làm phong phú thêm tư tưởng của Người về đại đoàn kết, cả đoàn kết toàn dân trong quốc gia dân tộc và đoàn kết quốc tế, và đề cao, động viên đồng bào Thiên chúa giáo trong và ngoài nước tham gia đông đảo vào khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết nhân dân toàn thế giới, tăng thêm lực lượng cho cách mạng.

HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI ĐẶT NỀN MÓNG CHO NGOẠI GIAO ĐA PHƯƠNG VIỆT NAM

Trong khi nước Việt Nam không có tên trên bản đồ thế giới, dân tộc Việt Nam bị chìm đắm trong đêm dài đen tối của ách đô hộ thực dân thì anh thanh niên Nguyễn Tất Thành bôn ba đến mấy chục nước trên thế giới để tìm đường cứu nước, đã tham gia hoạt động trong phong trào cách mạng của nhân dân bị áp bức nhiều nước châu á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ. Từ đầu thập niên 1920 "Hội liên hiệp thuộc địa" và tờ báo "Người cùng khổ" (Le Paria) do Nguyễn ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập tại Paris là một trong những minh chứng cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại đa phương với nhận thức sâu sắc rằng chủ nghĩa thực dân đế quốc là kẻ thù chung của các dân tộc bị áp bức, do vậy Người luôn quan tâm xây dựng khối đoàn kết chiến đấu giữa những người cùng cảnh ngộ, xây dựng "mối tình hữu ái vô sản". Nói cách khác, ngay từ lúc bấy giờ Nguyễn ái Quốc đã làm công tác "dân vận quốc tế" hay "ngoại giao nhân dân đa phương", làm cho bạn bè trên thế giới hiểu rõ tình cảnh của dân tộc ta, từ đó đồng tình ủng hộ sự nghiệp cách mạng và đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền ngoại giao đa phương

Như vậy Nguyễn ái Quốc đã đặt nền móng cho nền ngoại giao nhân dân và đa phương từ lâu trước khi có ngoại giao nhà nước và song phương cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mặt trận nhân dân thế giới được hình thành trên thực tế, đoàn kết ủng hộ mạnh mẽ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là sự gặt hái thành quả tất yếu của ngoại giao nhân dân mà Người đã có công gieo giống tốt trong những năm hoạt động ở hải ngoại. 
Bản "Yêu sách của nhân dân An nam" mà Nguyễn ái Quốc, thay mặt "Nhóm những người yêu nước An nam" gửi đến trưởng đoàn các nước dự Hội nghị Véc-xây (Pháp) sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất thể hiện sự nhạy bén, kịp thời nắm bắt thời cơ và sử dụng diễn đàn ngoại giao đa phương rộng lớn nhất lúc bấy giờ để trình bày thẳng với các cường quốc 8 yêu sách về những quyền tự do cơ bản tối thiểu của nhân dân ta. Bản yêu sách có tiếng vang lớn, làm cho bọn thực dân Pháp hoảng sợ, bọn bồi bút của chúng hốt hoảng la ó

Thứ Ba, 16 tháng 5, 2017

THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Kế thừa những tư tưởng đề cao vị trí, vai trò của dân trong truyền thống văn hóa phương Đông; những giá trị tốt đẹp trong nền dân chủ chủ nô thời cổ đại Hy lạp, thời Phục hưng, trong nền dân chủ Tư sản và quan trọng nhất là nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, mà theo V.I.Lênin thì đó là một nền dân chủ cao hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản. Bởi vì: “Lần đầu tiên, ở đây, chế độ dân chủ phục vụ quần chúng, phục vụ những người lao động” [1]. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã xây dựng nền dân chủ kiểu mới ở Việt Nam với chính thể “Dân chủ cộng hòa” nhằm đảm bảo cho dân tộc “Độc lập”, dân quyền “Tự do” và dân sinh “Hạnh phúc”. Với luận điểm: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[2] đã đưa Hồ Chí Minh lên hàng đầu những nhà dân chủ tiên tiến nhất trên thế giới, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin. Hạt nhân của luận điểm sáng tạo đó là Người đã phân tích rõ về vai trò của thực hành dân chủ trong Đảng.

ĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐỘĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC


Sự kiện Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) một mình ra đi tìm đường cứu nước, ngày 5 – 6 -1911, có ý nghĩa lịch sử lớn: Là mốc son đánh dấu sự kết thúc hơn 50 năm bế tắc công cuộc đấu tranh chông thực dân Pháp, cứu nước của ông cha, đồng thời khởi nguồn mở ra một thời kỳ mới trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước ta, nổi bật là thời kỳ đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo ngày nay. Tìm hiểu những gì tác động như là động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước góp phần không nhỏ làm sâu sắc thêm những ý nghĩa lịch sử đó.
Bến cảng Nhà Rồng - Nơi Người a đi tìm đường cứu nước
Khi bàn về động lực Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước có thể nói đó chính là yêu cầu thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi cấp thiết phải tìm ra một con đường cứu nước mới trước một thực tế đau xót là các cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX đều lần lượt thất bại. Nguyễn Tất Thành là người sớm nhận thức được yêu cầu của thực tiễn đó trên cơ sở của những nguồn động lực nội sinh ở một bậc vĩ nhân được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử thời đó. Đó là lòng nồng nàn yêu nước đã được nâng lên thành khát vọng cứu nước, cứu dân; là truyền thống “một dân tộc độc lập và một quốc gia có chủ quyền” trong suốt chiều dài đấu tranh giữ nước của dân tộc; là những kinh nghiệm được đúc kết thành triết lý chiến thắng trong đấu tranh chống giặc của cha ông, là đạo hiếu của một người con được cha mẹ và gia đình đặt niềm tin tưởng…

LAI CHÂU LUÔN TRONG TIM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


Nguyện hiến dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến năm 1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa hoạt động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1]. Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[2].
Tượng đài Bác Hồ vói các dân tộc
        Tình thương yêu con người và hết lòng chăm lo cho hạnh phúc của con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa bao la, vừa sâu sắc, cụ thể thiết thực. Người không chỉ chăm lo cho hạnh phúc chung cho toàn dân tộc Việt Nam, mà còn chăm lo hạnh phúc cho mỗi con người cụ thể ( “Sữa để em thơ, lụa tặng già…”) không phân biệt dâj tộc (tộc người: Kinh, Mường, Mán, Thái, Mèo, Tày, Nùng, ÊĐê, BaNa, XêĐăng…), tôn giáo, tầng lớp, nghề nghiệp, đảng phái, giới tính, tuổi tác, vùng miền…Trong đó, trên tinh thần  đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và công bằng cho các dân tộc và mỗi con người về nghĩa vụ và quyền lợi phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm sâu sắc cho đồng bào ở các tỉnh xa sôi, hẻo lánh, vùng núi cao, biên giới, hải đảo – những nơi, so với những tỉnh khác, điều kịên cho sự xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội gặp rất nhiều khó khăn mà không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Một trong số các tỉnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, động viên và chăm sóc đặc biệt là tỉnh Lai Châu[3]

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Đồng chí Nguyễn Văn Linh với thế hệ trẻ Việt Nam


Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, với niềm tin tất thắng vào sự thành công của cách mạng nước nhà, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (Bác Hồ) và Đảng cộng sản Việt Nam; với bản chất thông minh, ham học hỏi, tác phong lãnh đạo rất cụ thể, cẩn trọng, sâu sát quần chúng, năng động sáng tạo, kiên định lập trường, đầy tinh thần trách nhiệm... đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đem hết trí tuệ, đạo đức, tài năng tham gia lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng chí đã đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau, có cả những thời kỳ "ba chìm bảy nổi"[1], và cao nhất là đảm nhận trọng trách Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam khoá VI (1986-1971). Những quan điểm sáng tạo của Đồng chí về đổi mới đất nước cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Sự thành công rực rỡ trong quá trình đổi mới đất nước cho đến nay đã khắc đậm dấu ấn đồng chí Nguyễn Văn Linh. Lịch sử của công cuộc đổi mới, lịch sử dân tộc ta mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn của Đồng chí như là một trong những người đi đầu và và có công đầu đưa đất nước ta tiến vào một kỷ nguyên phát triển mới thực hiện lời thề son sắt của cả dân tộc ta trong việc thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
          Dù ở bất kỳ cương vị lãnh đạo nào trong Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng luôn luôn nhận thức sâu sắc và đề cao vị trí, vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong cách mạng, coi họ vừa là động lực to lớn, ở cả hiện tại và tương lai, vừa là mục tiêu của cách mạng. Đồng thời, Đồng chí cũng luôn biết phát huy vị trí, vai trò to lớn của thế hệ trẻ bằng những chủ trương, đường lối, giải pháp đúng đắn, khoa học, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử nước nhà.
          Bước đầu vào tuổi học đường (năm học 1925-1926), cậu học trò Nguyễn Văn Cúc (tên đầu của đồng chí Nguyễn Văn Linh) đã cùng các bạn bàn bạc với nhau về tương lai sao cho xứng đáng với thanh niên Việt Nam, với con Lạc, cháu Hồng. Cậu Cúc đã cùng nhiều bạn hồ hởi tham gia phong trào đọc và tuyên truyền các sách báo cách mạng, nhất là các bài viết của Nguyễn Ái Quốc, do tổ chức Thanh niên Trường Bonnan[2] tổ chức. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng với sự mẫn tiệp và tích cực tham gia phong trào, cậu Cúc đã được kết nạp vào Học sinh đoàn do Chi hội Thanh niên ở Trường Bonnan thành lập. Cũng từ đây, ý thức về bổn phận của người thanh niên đối với tổ quốc, với nhân dân ngày càng sâu sắc trong tâm khảm của Nguyễn Văn Cúc. Dưới sự hướng dẫn của tổ chức, anh thanh niên Nguyễn Văn Cúc đã cùng với bạn bè tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh của thợ thuyền thành phố Hải Phòng.

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...