Thứ Hai, 13 tháng 2, 2017

CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC HỒ CHÍ MINH – CỘI NGUỒN SÂU SẮC CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH

Khi nói về truyền thống yêu nước của cộng đồng người Việt Nam, hầu như các học giả lớn của dân tộc, từ xưa đến nay, đều khẳng định tính  toàn diện phổ quát rộng lớn, mức độ sâu sắc với nhiều tầng bản chất và vai trò rất to lớn của truyền thống quý báu này trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc ta suốt chiều dài lịch sử.
          Truyền thống yêu nước Việt Nam là sự hợp lưu nhiều truyền thống của cộng đồng người Việt được quy lại với hai dòng chủ lưu lớn là quá trình dựng nước và giữ nước.
          Quá trình dựng nước của người Việt bắt đầu từ những người Việt cổ trải qua các thời kỳ nguyên thuỷ, hái lượm, hang động, đồ đá cũ, đồ đá mới, đồ đồng, đồ sắt… với nhiều truyền thuyết nửa hiện thực, nửa huyền thoại như: Con rồng, cháu tiên – con Lạc, cháu Hồng, mười tám đời vua Hùng… Rồi tiếp theo qua thời Bắc thuộc 1117 năm, có xen kẽ những thời kỳ độc lập ngắn ngủi, rồi đến thời kỳ độc lập tự chủ với các triều đại Ngô, Đinh, Lê (tiền Lê), Lý, Trần, Lê (hậu Lê), Nguyễn (cả tiền Nguyễn - Nguyễn Hoàng, qua thời Tây Sơn đến hậu Nguyễn - Nguyễn Gia Long) và cho đến ngày nay - thời đại Hồ Chí Minh.
          Trong suốt chiều dài lịch sử hàng nghìn năm ấy, tổ tiên cha ông ta đã không một ngày ngừng nghỉ tạo dựng giang sơn, bờ cõi, mở rộng quê hương đất nước, bảo tồn và phát triển nòi giống bằng tinh thần lao động cần mẫn, nhận lại, sáng tạo, bền bỉ kiên cường, tạo nên những ấp, trại, xóm, thôn, bản, làng, thành thị… đông vui sầm uất với hàng trăm dòng họ và 54 dân tộc anh em. Các thế hệ sau cứ tiếp nối thế hệ trước trong công cuộc đấu tranh tận dụng những thuận lợi “trời cho”, cũng như khắc phục những khó khăn, hạn chế, không thuận lợi của điều kiện thời tiết, khí hậu và địa hình của đất nước ta. Quá trình lịch sử lâu dài đó cũng là quá trình người Việt đã cố kết với nhau thành cộng đồng quốc gia dân tộc mạnh mẽ. Cộng đồng người Việt luôn sống nhân ái, có nghĩa có tình; luôn đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau với mức độ phù hợp với yêu cầu của công cuộc mưu sinh gắn kết cả không gian và thời gian cụ thể: Từ gia đình, dòng họ đến ấp, trại, xóm, thôn, làng, bản. Rộng nữa là vùng, miền và rộng lớn nhất là cả nước. Trong quá trình đó, những lớp người đi trước luôn tạo dựng cho lớp người đi sau những gia tài, cơ nghiệp, kinh nghiệm, vốn sống, trí thức, ngành nghề, tín ngưỡng, trời đất, quỷ thần và vong linh của người thân cũng như của những người có công với dân với nước được dân làng và triều đình phong tặng: Thần thành hoàng, hạ đẳng thần, trung đẳng thần và cao nhất là thượng đẳng thần… Đó chính là tín ngưỡng tự nhiên và tín ngưỡng tổ tiên. Cái thế giới quan nửa duy vật, nửa duy tâm không triệt để, ngả nghiêng ấy cũng được bắt nguồn từ trong quá trình chinh phục thiên nhiên và tạo dựng cuộc sống, khai hoang, lấn biển, mở rộng bờ cõi đầy tính nhân văn cao cả của người Việt. Từ đó hình thành nên đời sống văn hoá (theo nghĩa rộng nhất) rất độc đáo với những triết lý sống không trừu tượng mà luôn thiết thực, cụ thể, chân thành. Cái ác, cái hiểm, cái giả dối, xấu xa, trong quá trình tạo dựng và mở rộng cõi bờ tổ quốc, nhiều khi cũng hiện diện xem kẽ với cái thiện, cái chân, cái mỹ như: cướp của, giết người, đố kỵ, gian tham, lịnh bộ, trâu buộc ghét trâu ăn, cháy nhà hàng xóng bình chân như vại, sống chết mặc bay tiền thày bỏ túi, lừa lọc, dối trá, miệng nam mô bụng một bồ giao găm… Nhưng những hiện tượng đó chỉ như là những gia vị đắng, cay, chua, chát… điểm xuyết cho cuộc sống trần tục đời thường, mà loài người đều có, với mức độ và cách thức thể hiện khác nhau, cho thêm phần ý vị…
          Quá trình dựng nước của người Việt, bắt đầu từ khi hình thành quốc gia dân tộc, gắn liền với quá trình đấu tranh kiên cường bất khuất để giữ nước. Từ đó hai quá trình dựng nước và giữ nước gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau.
          Có thể thấy rõ rằng tuyệt đại bộ phận lịch sử Việt Nam là lịch sử của những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Những cuộc chiến đấu lớn, nhỏ, kế tiếp nhau, đời nào cũng có ấy đã viết lên những bản anh hùng ca vang vọng nhất trong lịch sử nhân loại. Non sông gấm vóc Việt Nam, con người Việt Nam, xóm thôn làng bản thành thị Việt Nam, văn hoá Việt Nam, của cải Việt Nam… là kết quả, là sản phẩm được tích luỹ lại qua hàng nghìn năm dựng nước của biết bao thế hệ người Việt kế tiếp nhau; là kết quả giành được bằng biết bao mồ hôi, nước mắt, sức lực, trí tuệ và máu xương đã đổ ra. Do đó quyết không để kẻ thù đến xâm lược, cướp bóc. Chủ quyền quốc gia dân tộc vì thế mà luôn luôn được khẳng định như cái vốn có. Và vì thế mà người Việt thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, luôn quyết tâm, bền gan chiến đấu đến cùng để bảo vệ cho bằng được. Từ “Nam quốc Sơn hà Nam đế cư…” tiếp đến “Như nước Đại Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong tục Bắc Nam cũng khác…” và “Tuyên ngôn độc lập” là một mạch liền không dứt, phản ánh tinh thần bất khuất, trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta, khiến cho những tên xâm lược hùng mạnh nhất của hành tinh (như đế quốc Nguyên Mông trước kia và đế quốc Mỹ ngày nay) cũng phải “cúi đầu khiếp sợ”, “quy hàng, cuốn gói”.
          Có thể tóm tắt nội dung chính yếu của truyền thống yêu nước Việt Nam được hình thành và tích luỹ lại trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ở những điểm dưới đây:
          - Truyền thống yêu thương quê hương, đất nước, con người thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả. Trong đó cái bản chất sâu sắc nhất là tâm hồn người Việt được cô đặc, đúc kết từ những giọt mồ hôi, công sức trong lao động sản xuất tạo dựng quê hương…, công lao của tổ tiên ông bà cha mẹ, công lao của tình nghĩa thầy trò, của tình yêu lứa đôi sinh thành bất diệt, của xóm thôn – làng - nước và đặc biệt là thấm đậm máu xương của biết bao thế hệ người Việt đã đổ ra để gìn giữ mảnh đất ngàn đời này. Một nhà thơ nào đó đã rất có lý và sâu sắc khi xuất thần câu thơ “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn” hay một câu thơ khác: “Từ thủa mang gươm đi mở cõi. Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”… để rồi “ Quê hương nếu ai không nhớ. Sẽ không lớn nổi thành người”! Vì vậy nói yêu nước không thể chỉ nhấn mạnh tới tinh thần chiến đấu anh dũng chống giặc ngoại xâm mà cái chủ yếu hơn, cái gốc của vấn đề là còn phải nói tới quá trình lao động sản xuất không mệt mỏi để dựng xây và phát triển quê hương đất nước, nuôi dưỡng và bảo vệ con người, phát triển toàn diện con người. Khi nói tới yêu nước mà chỉ nhấn mạnh một mặt, hoặc là giữ nước, hoặc là dựng nước, đều không trọn vẹn. Hai dòng chủ lưu đó hoà quyện với nhau là nguồn gốc sâu xa của truyền thống yêu nước Việt Nam.
          - Truyền thống đoàn kết, tương trợ, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, cứu giúp lẫn nhau cả trong lao động sản xuất và chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
          - Truyền thống cần cù, nhẫn nại, sáng tạo, vượt khó và tiết kiệm cả trong quá trình dựng nước và cứu nước.
          - Truyền thống “một dân tộc độc lập và một quốc gia có chủ quyền”, tự tôn dân tộc cả trong quá trình dựng nước và giữ nước.

          - Truyền thống uống nước nhớ nguồn - Biết tưởng nhớ và hành động đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tông, ông bà, cha mẹ và những người có công với dân với nước… Chỉ có những kẻ đánh mất linh hồn, lương tâm, đầu hàng giặc, cam tâm làm tay sai cho giặc mới quay lại phỉ báng tổ tiên, ông bà cha mẹ mình và những người đã chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước mình…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...