Truyền thống yêu nước Việt
Nam
là sự hợp lưu nhiều truyền thống của cộng đồng người Việt được quy lại với hai
dòng chủ lưu lớn là quá trình dựng nước và giữ nước.
Quá trình dựng nước của người
Việt bắt đầu từ những người Việt cổ trải qua các thời kỳ nguyên thuỷ, hái lượm,
hang động, đồ đá cũ, đồ đá mới, đồ đồng, đồ sắt… với nhiều truyền thuyết nửa hiện
thực, nửa huyền thoại như: Con rồng, cháu tiên – con Lạc, cháu Hồng, mười tám đời
vua Hùng… Rồi tiếp theo qua thời Bắc thuộc 1117 năm, có xen kẽ những thời kỳ độc
lập ngắn ngủi, rồi đến thời kỳ độc lập tự chủ với các triều đại Ngô, Đinh, Lê
(tiền Lê), Lý, Trần, Lê (hậu Lê), Nguyễn (cả tiền Nguyễn - Nguyễn Hoàng, qua thời
Tây Sơn đến hậu Nguyễn - Nguyễn Gia Long) và cho đến ngày nay - thời đại Hồ Chí
Minh.
Trong suốt chiều dài lịch
sử hàng nghìn năm ấy, tổ tiên cha ông ta đã không một ngày ngừng nghỉ tạo dựng
giang sơn, bờ cõi, mở rộng quê hương đất nước, bảo tồn và phát triển nòi giống
bằng tinh thần lao động cần mẫn, nhận lại, sáng tạo, bền bỉ kiên cường, tạo nên
những ấp, trại, xóm, thôn, bản, làng, thành thị… đông vui sầm uất với hàng trăm
dòng họ và 54 dân tộc anh em. Các thế hệ sau cứ tiếp nối thế hệ trước trong công
cuộc đấu tranh tận dụng những thuận lợi “trời cho”, cũng như khắc phục những khó
khăn, hạn chế, không thuận lợi của điều kiện thời tiết, khí hậu và địa hình của
đất nước ta. Quá trình lịch sử lâu dài đó cũng là quá trình người Việt đã cố kết
với nhau thành cộng đồng quốc gia dân tộc mạnh mẽ. Cộng đồng người Việt luôn sống
nhân ái, có nghĩa có tình; luôn đoàn kết, thương yêu, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau
với mức độ phù hợp với yêu cầu của công cuộc mưu sinh gắn kết cả không gian và
thời gian cụ thể: Từ gia đình, dòng họ đến ấp, trại, xóm, thôn, làng, bản. Rộng
nữa là vùng, miền và rộng lớn nhất là cả nước. Trong quá trình đó, những lớp người
đi trước luôn tạo dựng cho lớp người đi sau những gia tài, cơ nghiệp, kinh
nghiệm, vốn sống, trí thức, ngành nghề, tín ngưỡng, trời đất, quỷ thần và vong
linh của người thân cũng như của những người có công với dân với nước được dân
làng và triều đình phong tặng: Thần thành hoàng, hạ đẳng thần, trung đẳng thần
và cao nhất là thượng đẳng thần… Đó chính là tín ngưỡng tự nhiên và tín ngưỡng
tổ tiên. Cái thế giới quan nửa duy vật, nửa duy tâm không triệt để, ngả nghiêng
ấy cũng được bắt nguồn từ trong quá trình chinh phục thiên nhiên và tạo dựng cuộc
sống, khai hoang, lấn biển, mở rộng bờ cõi đầy tính nhân văn cao cả của người
Việt. Từ đó hình thành nên đời sống văn hoá (theo nghĩa rộng nhất) rất độc đáo
với những triết lý sống không trừu tượng mà luôn thiết thực, cụ thể, chân thành.
Cái ác, cái hiểm, cái giả dối, xấu xa, trong quá trình tạo dựng và mở rộng cõi
bờ tổ quốc, nhiều khi cũng hiện diện xem kẽ với cái thiện, cái chân, cái mỹ như:
cướp của, giết người, đố kỵ, gian tham, lịnh bộ, trâu buộc ghét trâu ăn, cháy
nhà hàng xóng bình chân như vại, sống chết mặc bay tiền thày bỏ túi, lừa lọc, dối
trá, miệng nam mô bụng một bồ giao găm… Nhưng những hiện tượng đó chỉ như là những
gia vị đắng, cay, chua, chát… điểm xuyết cho cuộc sống trần tục đời thường, mà
loài người đều có, với mức độ và cách thức thể hiện khác nhau, cho thêm phần ý
vị…
Quá trình dựng nước của người
Việt, bắt đầu từ khi hình thành quốc gia dân tộc, gắn liền với quá trình đấu
tranh kiên cường bất khuất để giữ nước. Từ đó hai quá trình dựng nước và giữ nước
gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung hỗ trợ cho nhau.
Có thể thấy rõ rằng tuyệt đại
bộ phận lịch sử Việt Nam
là lịch sử của những cuộc chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Những cuộc chiến đấu
lớn, nhỏ, kế tiếp nhau, đời nào cũng có ấy đã viết lên những bản anh hùng ca
vang vọng nhất trong lịch sử nhân loại. Non sông gấm vóc Việt Nam, con người
Việt Nam, xóm thôn làng bản thành thị Việt Nam, văn hoá Việt Nam, của cải Việt
Nam… là kết quả, là sản phẩm được tích luỹ lại qua hàng nghìn năm dựng nước của
biết bao thế hệ người Việt kế tiếp nhau; là kết quả giành được bằng biết bao mồ
hôi, nước mắt, sức lực, trí tuệ và máu xương đã đổ ra. Do đó quyết không để kẻ
thù đến xâm lược, cướp bóc. Chủ quyền quốc gia dân tộc vì thế mà luôn luôn được
khẳng định như cái vốn có. Và vì thế mà người Việt thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước,
luôn quyết tâm, bền gan chiến đấu đến cùng để bảo vệ cho bằng được. Từ “Nam quốc Sơn hà Nam đế cư…” tiếp đến “Như nước Đại
Việt ta từ trước. Vốn xưng nền văn hiến đã lâu. Núi sông bờ cõi đã chia. Phong
tục Bắc Nam cũng khác…” và “Tuyên ngôn độc lập” là một mạch liền không dứt, phản
ánh tinh thần bất khuất, trong quá trình đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc
ta, khiến cho những tên xâm lược hùng mạnh nhất của hành tinh (như đế quốc Nguyên
Mông trước kia và đế quốc Mỹ ngày nay) cũng phải “cúi đầu khiếp sợ”, “quy hàng,
cuốn gói”.
Có thể tóm tắt nội dung chính
yếu của truyền thống yêu nước Việt Nam
được hình thành và tích luỹ lại trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc
Việt Nam
ở những điểm dưới đây:
- Truyền thống yêu thương
quê hương, đất nước, con người thấm đượm tinh thần nhân văn cao cả. Trong đó cái
bản chất sâu sắc nhất là tâm hồn người Việt được cô đặc, đúc kết từ những giọt
mồ hôi, công sức trong lao động sản xuất tạo dựng quê hương…, công lao của tổ
tiên ông bà cha mẹ, công lao của tình nghĩa thầy trò, của tình yêu lứa đôi sinh
thành bất diệt, của xóm thôn – làng - nước và đặc biệt là thấm đậm máu xương của
biết bao thế hệ người Việt đã đổ ra để gìn giữ mảnh đất ngàn đời này. Một nhà
thơ nào đó đã rất có lý và sâu sắc khi xuất thần câu thơ “Khi ta ở chỉ là nơi đất
ở. Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn” hay một câu thơ khác: “Từ thủa mang gươm đi
mở cõi. Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”… để rồi “ Quê hương nếu ai không
nhớ. Sẽ không lớn nổi thành người”! Vì vậy nói yêu nước không thể chỉ nhấn mạnh
tới tinh thần chiến đấu anh dũng chống giặc ngoại xâm mà cái chủ yếu hơn, cái gốc
của vấn đề là còn phải nói tới quá trình lao động sản xuất không mệt mỏi để dựng
xây và phát triển quê hương đất nước, nuôi dưỡng và bảo vệ con người, phát triển
toàn diện con người. Khi nói tới yêu nước mà chỉ nhấn mạnh một mặt, hoặc là giữ
nước, hoặc là dựng nước, đều không trọn vẹn. Hai dòng chủ lưu đó hoà quyện với
nhau là nguồn gốc sâu xa của truyền thống yêu nước Việt Nam .
- Truyền thống đoàn kết, tương
trợ, tương thân tương ái giúp đỡ lẫn nhau, cứu giúp lẫn nhau cả trong lao động
sản xuất và chiến đấu chống giặc ngoại xâm.
- Truyền thống cần cù, nhẫn
nại, sáng tạo, vượt khó và tiết kiệm cả trong quá trình dựng nước và cứu nước.
- Truyền thống “một dân tộc
độc lập và một quốc gia có chủ quyền”, tự tôn dân tộc cả trong quá trình dựng nước
và giữ nước.
- Truyền thống uống nước nhớ
nguồn - Biết tưởng nhớ và hành động đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tông, ông bà,
cha mẹ và những người có công với dân với nước… Chỉ có những kẻ đánh mất linh hồn,
lương tâm, đầu hàng giặc, cam tâm làm tay sai cho giặc mới quay lại phỉ báng tổ
tiên, ông bà cha mẹ mình và những người đã chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước mình…
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét