Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

Từ giá trị truyền thống “Kính trọng người hiền tài” đến tư tưởng “Tìm người tài đức” của Hồ Chí Minh

Trong lịch sử dân tộc, những người tài đức[1] (hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại phong kiến kính trọng, tôn vinh. Người tài đức là những người hiền nhân tài giỏi có phẩm chất đạo đức mẫu mực,có trí thức sâu rộng, biết đề ra phương thức đáp ứng được xu hướng của thời cuộc và đòi hỏi của thực tế, có nhiều sáng tạo trong công việc, có nhiều cống hiến to lớn cho dân, cho nước, thậm chí có thể mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử dân tộc. Trong đó, chủ yếu là đội ngũ vua quan giữ vai trò lãnh đạo – quản lý chủ chốt của bộ máy nhà nước phong kiến.

Các giá trị văn hoá dân tộc – cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”[1], trong đó nổi bật, triệt để nhất là những quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam nói chung, về CNXH nói riêng được hình thành và phát triển, hoàn thiện dựa trên nhiều cơ sở như là sự kết tinh tinh hoa trí tuệ của nhân loại, mà cơ sở xuất phát điểm đầu tiên, tiên quyết là “kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[2]. Nghiên cứu, làm sâu sắc vai trò của các giá trị tốt đẹp của dân tộc, tức là các giá trị văn hoá dân tộc, trong việc hình thành những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH, có nhiều ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với cả quá trình tiến triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay. Bởi vì công cuộc đổi mới, do Đảng ta khởi xướng, chính là một đường hướng mới, sáng tạo nhằm hiện thực hoá những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta và trên thế giới trong điều kiện mới, tuy biết rằng đây là một con đường đầy chông gai thử thách với những diễn tiến phức tạp, khó lường, nhưng có lẽ “không còn con đường nào khác” để đảm bảo cho sự thành công của CNXH ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên CNXH “không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Thứ Hai, 17 tháng 10, 2016

Đồng chí Hoàng Quốc Việt trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn 1930-1954

Năm 1930, đồng chí Hoàng Quốc Việt là một thanh niên công nhân có học, tràn đầy lòng yêu nước, nhưng còn đang phân vân, chưa biết nên theo Việt Nam quốc dân Đảng hay theo Đảng Tân Việt! Trong lúc đó đồng chí Hoàng Quốc Việt được đồng chí Nguyễn Đức Cảnh giác ngộ và kết nạp vào Đảng Thanh Niên (tức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội - Hội Việt Nam thanh niên cách mạng). Được sự dìu dắt của Nguyễn Đức Cảnh và say sưa nghiên cứu các sách báo cách mạng, nhất là các bài viết của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đồng chí Hoàng Quốc Việt đã hiểu sâu sắc những nguyên lý cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, theo đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đúc kết: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công nông là gốc cách mạng. Cách mạng muốn thắng lợi triệt để phải do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam phải có mối liên hệ với cách mạng thế giới"[1]... Ngay khí đó đồng chí Hoàng Quốc Việt đã trở thành học trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với luận điểm: "Bác là lá cờ đại nghĩa về đoàn kết"[2], mặc dù khi đó Hoàng Quốc Việt chưa được gặp Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, cả cuộc đời cách mạng của Hoàng Quốc Việt luôn luôn tiến bước theo lá cờ đại nghĩa đó. Cắm lá cờ đại nghĩa đó lên đỉnh vinh quang của cách mạng nước nhà. Đồng chí Hoàng Quốc Việt đã trở thành người học trò xuất sắc nhất của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình hiện thực hoá tư tưởng đại đoàn kết của Người, đảm bảo vững chắc sự thắng lợi ngày càng rực rỡ của cách mạng Việt Nam.

Giá trị đạo đức với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Vấn đề “Tiến bộ của nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta hiện nay

Vấn đề Tiến bộ nhân loại (Tiến bộ của nhân loại) không phải là vấn đề mới nhưng lại luôn luôn là vấn đề thời sự của mỗi thời đại kế tiếp nhau trong lịch sử. Vấn đề này có ý nghĩa lớn trong thời đại hiện nay nói chung và đối với nước ta nói riêng.
          Có nhiều cách thức nghiên cứu khác nhau phụ thuộc vào mục đích phát triển rộng hẹp hay riêng từng lĩnh vực kinh tế hay chính trị, văn hoá hay con người, quốc gia hay quốc tế, dân tộc hay thời đại v.v… Vì vậy không nên quan niệm theo cách nói là “cách tiếp cận”. “Tiếp cận” theo nghĩa thực là tiếp gần tới một sự vật, hiện tượng nào đó. Do đó tiếp cận chỉ là bước chuẩn bị để đi sâu vào nghiên cứu, mổ xẻ sự vật, chứ chưa cho phép hiểu được bản chất sự vật, hiện tượng. Vì vậy chỉ bằng “cách tiếp cận” mà đặt ra yêu cầu, phải làm rõ “vấn đề tiến bộ nhân loại” thì chỉ là ảo tưởng, chủ quan duy ý chí. Để làm rõ được khái niệm “tiên bộ nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải nghiên cứu toàn diện tư tưởng của Người và những hoạt động thực tiễn của Người để thực hiện tiến bộ nhân loại theo tư tưởng đó.

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2016

VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI PHÁTTRIỂN VĂN HÓA

1-    Đời sống kinh tế là cơ sở hình thành đời sống văn hóa
          C Mác viết: “…tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”[1]. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của C Mác vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước…”[2] Cũng vì vậy, có thể khẳng định rằng: con người với tư cách “người”, được bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.

Giá trị đạo đức trong Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh

Toàn văn bản Di chúc của Bác là kết tinh những triết lý nhân sinh hết sức cô đọng, sâu sắc ở nhiều tầng bản chất, có lẽ phải qua nhiều thế hệ kế tiếp mới có thể lý giải thoả đáng. Tuy vậy, bước đầu có thể khẳng định được rằng: Những điều mong muốn cuối cùng của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1] cũng chính là những mục tiêu chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta mà Bác di chúc lại cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để hướng dẫn việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu ấy, Bác đã viết bằng cả tâm huyết của mình bản Di chúc thiêng liêng, mà trong đó cái hạt nhân và cũng là cái bản chất nhất là Bác mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, mỗi người, mỗi đảng viên và cán bộ phải nêu gương suốt đời tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng.

Giá trị văn hoá truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” Việt Nam trong hội nhập và phát triển đất nước hiện nay

Hội nhập và phát triển mang trong chúng mỗi quan hê nhân quả chuyển tiếp. Hội nhập để phát triển và trong phát triển có hội nhập. Mối quan hệ nhân nhân – quả quả - nhân nhân… cứ như vậy ấy của hội nhập và phát triển là quy luật chung trong sự vận động tiến lên mãi của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi con người và cả loài người. Vấn đề quan trọng là hội nhập và phát triển như thế nào? Giải quyết vấn đề này phụ thuộc nhiều vào ý nguyện của dân chúng và chính sách của mỗi quốc gia ở mỗi hoàn cảnh lịch sử nhất định. Đối với Việt Nam hiện nay, mong muốn hội nhập, tích cực hội nhập, chủ động hội nhập để phát triển nhưng không muốn “hoà tan”; phấn đấu phát triển đất nước, nhưng không muốn “tự đánh mất mình”; luôn tự hào về sự lớn mạnh của mình chứ không muốn “Bốn nghìn năm ta lại là ta”… Hy vọng bài viết nhỏ này có thể đóng góp chút ít gì đó vào việc thực hiện những mục tiêu có vẻ “khiêm tốn” ấy!

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016

TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN VĂN CỪ TRONG CAO TRÀO ĐẤU TRANH CỦA MẶT TRẬN DÂN CHỦ (1936-1939)

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ trở thành đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng vào tháng 6 năm 1929. Đồng chí được Đảng phân công làm cán bộ chuyên môn của Đảng. Đồng chí đã góp nhiều công sức vào việc thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở nước ta (1930), vào công tác tuyên truyền và phát triển Đảng, xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng ở vùng mỏ than Đông - Bắc của Tổ quốc. Cuối năm 1930, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt và đầy đi Côn Đảo vào năm 1932. Trong tù, đồng chí đã đấu tranh bất khuất, không khoan nhượng đầu hàng, hơn nữa còn cùng với các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng... hướng dẫn các đồng chí khác học tập văn hoá, lý luận và trao đổi kinh nghiệm đấu tranh - "Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng". Năm 1936, nhờ phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở trong nước, nhờ cuộc đấu tranh mạnh mẽ của Mặt trận bình dân Pháp thắng lợi... thực dân Pháp buộc phải thả một số tù chính trị ở nước ta, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Cừ.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG

Cán bộ và công tác cán bộ là mối quan tâm lớn của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Hồ Chí Minh đã dạy: Cán bộ là gốc của cách mạng, là yếu tố quyết định sự thành bại của phong trào và thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam mấy thập kỷ qua đã cho chúng ta thấy rõ như vậy. Vì thế, việc tiếp tục nghiên cứu nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng có ý nghĩa và giá trị thực tiễn sâu sắc đối với Đảng ta không chỉ trong công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mà còn mãi mãi về sau.

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...