Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

         Cho đến nay, văn hóa được hiểu với nghĩa chung nhất là “ tự nhiên xã hội hóa”, hay “Văn hóa là tất cả những cái gì không phải của tự nhiên”, cụ thể hơn là “ tích hợp những cái do con người sáng tạo ra và mang bản chất xã hội”...Cuối năm 1943, trên cơ sở tổng kết lý luận về văn hóa và phân tích rõ nguồn gốc, vai trò của các loại sản phẩm do con người sáng tạo ra, Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm toàn diện và cụ thể về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nhệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[1]. Đây là quan điểm về văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý.v.v.. Ở vào thời gian này, khi mà tình hình trong ngước và thế giới đang tạo ra thời cơ cho cách mạng dân tộc giải phóng nước ta giành thắng lợi đến gần, Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam với năm điểm lớn:

ĐỒNG CHÍ VÕ CHÍ CÔNG VỚI CHỈ THỊ SỐ 100 CỦA BAN BÍ THƯ, NGÀY 13 THÁNG 1 NĂM 1981

Ngày 13 – 1 – 1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100 về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã (HTX) nông nghiệp.Trong hoàn cảnh thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi cấp thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Trung ương còn có nhiều ý kiến trái chiều, thì Chỉ thị 100: “ là một bước đột phá quan trọng trên con đường tìm tòi đổi mới”[1]. Vấn đề đặt ra ở đây là: Khi mà trong Trung ương còn có nhiều ý kiến chưa đồng thuận, đồng chí Trường Chinh cũng chưa mặn mà với Chỉ thị 100[2], thì ai là người sớm nhận thức được yêu cầu của thực tiễn và tổ chức thực tiễn để “kiềm nghiệm chân lý”? Ai là người dũng cảm, cả quyết đứng ra nhận trách nhiệm tổ chực dự thảo và tổ chức thực hiện thành công Chỉ thị 100? Người đó, vào cuối năm 1979 đến đầu năm 1981, chính là đồng chí Võ Chí Công, bấy giờ đang là ủy viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng phụ trách khối nông, lâm, hải sản. Động chí Võ Chí Công, chẳng những là nhà lãnh đạo đứng đầu Liên khu năm, một chủ tướng lừng lẫy trong chiến tranh cách mạng, mà còn là một nhà lãnh đạo chính trị, kinh tế suất sắc của Đảng và Nhà nước ta trong thời bình. Những cống hiến to lớn của Đồng chí trong lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế, trước và sau Đại hội VI của Đảng, đều bắt nguồn từ việc tìm tòi và giải đáp những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế nước ta lúc bấy giờ

LAI CHÂU LUÔN TRONG TIM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Nguyện hiến dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến năm 1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa hoạt động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1]. Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[2].

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ TRUNG - HIẾU TRONG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC NGUYỄN TẤT THÀNH

Thời kỳ trước và sau những ngày đầu Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đất nước ta, dân tộc ta vẫn còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ cho thực dân Pháp. Cùng với những biến động lớn của đời sống chính trị, kinh tế,văn hóa, xã hội, trong thời kỳ diễn ra chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của tư bản Pháp, mối quan hệ đạo đức trung – hiếu cũng biến đổi tương ứng đòi hỏi được lý giải thỏa đáng.

ĐỒNG CHÍ NGUYỄN LƯƠNG BẰNG -VỊ ĐẠI SỨ ĐẶC MỆNH TOÀN QUYỀN ĐA QUỐC GIA (1952-1956)

Trong lịch sử hàng ngàn năm, người Việt Nam hoàn toàn có quyền tự hào về truyền thống dân tộc mình, nổi bật là truyền thống ngoại giao với nhiều vị sứ thần tài trí, mưu lược, dũng cảm quên mình, hoàn thành mệnh vua, nghĩa nước. Có nhiều vị sứ thần huyền thoại đến mức quân vương của nước thù địch cũng phải kính phục phong hàm “lưỡng quốc trạng nguyên” như Mạc Đĩnh Chi (đời Trần)…Những vị sứ thần này chẳng những không làm nhục quốc thể, mà còn tích cực trong đấu tranh ngoại giao, sáng tạo sử dụng các “thuật ngoại giao” vừa linh hoạt, mềm dẻo, vừa cứng rắn, kiên cường để tôn cao quốc thể, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đi sứ sang Trung Quốc thời xưa mà không cầm chắc có ngày về…

Nguyễn Tất Thành rời Huế đến Bình Định sau cha

Đầu tháng 6/1909, được tin cha mình (Nguyễn Sinh Huy) chắc chắn sẽ nhậm chức tri huyện Bình Khê tỉnh Bình Định, Nguyễn Tất Thành đã có thể tạm yên tâm với cuộc sống của cha và gia đình, sau khi mình ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Cuối tháng 6 cùng năm, Nguyễn Tất Thành, sau khi học xong lớp trung đẳng ở Trường quốc học Huế, đã quyết định rời Huế ra đi theo mục đích đã định. Bình Định là trạm dừng chân đầu tiên của Nguyễn Tất Thành trên con đường thiên lý đầy gian lao, thử thách.

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

Hạt nhân trong bản Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh

Tính từ ngày Bác (Chủ tịch Hồ Chí Minh) viết bản di chúc cuối cùng (19-5-1969), hơn 40 năm đã trôi qua mà cứ ngỡ thời gian có chiều ngược lại! Bản di chúc của Bác biểu hiện tập trung chủ nghĩa nhân văn cao cả và triệt để, gửi gắm tâm nguyện của một bậc vĩ nhân suốt đời phấn đâu đến phút giây cuối cùng vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và nhân loại. Di chúc của Bác đã truyền niềm tin tất thắng và như túi cẩm nang thần kỳ đưa đường, chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân ta tiến bước vững chắc trên con đường cách mạng không ngừng.

HỒ CHÍ MINH VỀ “GIÚP BẠN LÀ TỰ GIÚP MÌNH”

Trong lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh mối qyan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Người viết: “ Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[1]. Người kêu gọi giai cấp công nhân các nước phương Tây phải đẩy mạnh việc ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Trong những bài phát biểu tại Đại hội lần thứ V (1924) Quốc tế cộng sản, Người nói: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng, hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng”[2]. Vì vậy, muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, trước hết cần xóa bỏ hệ thống thuộc địa của nó. Từ đó, Người đề xuất luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động và có thể giành thắng lợi trược cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[3]

BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA THI ĐUA YÊU NƯỚC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Cách đây 60 năm, ngày 11 tháng 6 năm 1948, Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, cả dân tộc ta đã tích cực tham gia các phong trào thi đua ái quốc liên tục do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và tổ chức. Kết quả thật là to lớn, thật là vĩ đại- tạo ra sức mạnh tổng hợp vô địch, quyết định sự thắng lợi ngày càng to lớn hơn của cách mạng nước ta.

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

ĐỒNG CHÍ HÀ HUY TẬP TỔNG BÍ THƯ ĐẦY NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 1936-1938

Tháng 4-1936, Mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong Tổng tuyển cử. Tháng 6 cùng năm, Mặt trận thành lập Chính phủ mới ở Pháp, theo khuynh hướng tiến bộ, do Lêông Blum-Chủ tịch Đảng Xã hội làm Thủ tướng. Chính phủ của Mặt trận bình dân lên cầm quyền đã ban bố một số quyền tự do dân chủ, cải thiện chế độ làm việc cho nhân dân lao động, ân xá hoặc giảm án tù chính trị, thành lập phái đoàn của Quốc hội Pháp cử sang các nước thuộc địa để điều tra tình hình… Những cải cách của Chính phủ Pháp có tác động lớn tới nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, chống chiến tranh, chống bọn phản động thuộc địa, bảo vệ hoà bình… Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải có “con đường chính trị mới”. Đồng chí Hà Huy Tập được phân công về nước lãnh đạo cách mạng. Đồng chí đã đáp ứng được đòi hỏi đó, đưa cách mạng nước ta giành nhiều thắng lợi to lớn.

Giá trị đạo đức với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

            Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bác) là kết tinh những triết lý nhân sinh vừa cô đọng, sâu sắc, ở tầm cao lý luận, vừa cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Rõ nhất là những điều mong muốn cuối cùng của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1]. Đó là những mục tiêu vừa là trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu ấy, Bác thiết tha mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, trước hết là mỗi đảng viên và cán bộ, phải nêu gương suốt đời tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...