Cho đến nay, văn hóa được hiểu với
nghĩa chung nhất là “ tự nhiên xã hội hóa”, hay “Văn hóa là tất cả những cái gì
không phải của tự nhiên”, cụ thể hơn là “ tích hợp những cái do con người sáng
tạo ra và mang bản chất xã hội”...Cuối năm 1943, trên cơ sở tổng kết lý luận về
văn hóa và phân tích rõ nguồn gốc, vai trò của các loại sản phẩm do con người
sáng tạo ra, Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm toàn diện và cụ thể về văn
hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nhệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn
hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà
loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của
sự sinh tồn”[1].
Đây là quan điểm về văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm tất cả các mặt của đời
sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý.v.v.. Ở vào thời gian
này, khi mà tình hình trong ngước và thế giới đang tạo ra thời cơ cho cách mạng
dân tộc giải phóng nước ta giành thắng lợi đến gần, Hồ Chí Minh đã chủ trương
xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam với năm điểm lớn:
Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016
ĐỒNG CHÍ VÕ CHÍ CÔNG VỚI CHỈ THỊ SỐ 100 CỦA BAN BÍ THƯ, NGÀY 13 THÁNG 1 NĂM 1981
Ngày
13 – 1 – 1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100 về cải tiến công tác
khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp
tác xã (HTX) nông nghiệp.Trong hoàn cảnh thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi cấp
thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Trung ương còn có nhiều ý kiến trái
chiều, thì Chỉ thị 100: “ là một bước đột phá quan trọng trên con đường tìm tòi
đổi mới”[1]. Vấn đề đặt ra ở đây là:
Khi mà trong Trung ương còn có nhiều ý kiến chưa đồng thuận, đồng chí Trường
Chinh cũng chưa mặn mà với Chỉ thị 100[2], thì ai là người sớm nhận
thức được yêu cầu của thực tiễn và tổ chức thực tiễn để “kiềm nghiệm chân lý”?
Ai là người dũng cảm, cả quyết đứng ra nhận trách nhiệm tổ chực dự thảo và tổ
chức thực hiện thành công Chỉ thị 100? Người đó, vào cuối năm 1979 đến đầu năm
1981, chính là đồng chí Võ Chí Công, bấy giờ đang là ủy viên Bộ chính trị, Phó
Thủ tướng phụ trách khối nông, lâm, hải sản. Động chí Võ Chí Công, chẳng những
là nhà lãnh đạo đứng đầu Liên khu năm, một chủ tướng lừng lẫy trong chiến tranh
cách mạng, mà còn là một nhà lãnh đạo chính trị, kinh tế suất sắc của Đảng và
Nhà nước ta trong thời bình. Những cống hiến to lớn của Đồng chí trong lãnh đạo
xây dựng và phát triển kinh tế, trước và sau Đại hội VI của Đảng, đều bắt nguồn
từ việc tìm tòi và giải đáp những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xây dựng và
phát triển kinh tế nước ta lúc bấy giờ
LAI CHÂU LUÔN TRONG TIM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
Nguyện
hiến dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến
năm 1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa
hoạt động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất
cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà
báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc
là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do,
đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1].
Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước
hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi
con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là
mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được
tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không
làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc
đủ”[2].
Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ TRUNG - HIẾU TRONG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC NGUYỄN TẤT THÀNH
Thời kỳ trước và sau những ngày đầu Nguyễn Tất
Thành ra đi tìm đường cứu nước, đất nước ta, dân tộc ta vẫn còn chìm đắm trong
đêm dài nô lệ cho thực dân Pháp. Cùng với những biến động lớn của đời sống
chính trị, kinh tế,văn hóa, xã hội, trong thời kỳ diễn ra chính sách khai thác thuộc địa lần thứ
nhất của tư bản Pháp, mối quan hệ đạo đức trung – hiếu cũng biến đổi tương ứng đòi hỏi được
lý giải thỏa đáng.
ĐỒNG CHÍ NGUYỄN LƯƠNG BẰNG -VỊ ĐẠI SỨ ĐẶC MỆNH TOÀN QUYỀN ĐA QUỐC GIA (1952-1956)
Trong lịch sử hàng ngàn năm, người Việt Nam hoàn toàn có quyền tự hào về
truyền thống dân tộc mình, nổi bật là truyền thống ngoại giao với nhiều vị sứ thần
tài trí, mưu lược, dũng cảm quên mình, hoàn thành mệnh vua, nghĩa nước. Có
nhiều vị sứ thần huyền thoại đến mức quân vương của nước thù địch cũng phải
kính phục phong hàm “lưỡng quốc trạng nguyên” như Mạc Đĩnh Chi (đời Trần)…Những
vị sứ thần này chẳng những không làm nhục quốc thể, mà còn tích cực trong đấu
tranh ngoại giao, sáng tạo sử dụng các “thuật ngoại giao” vừa linh hoạt, mềm
dẻo, vừa cứng rắn, kiên cường để tôn cao quốc thể, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
đi sứ sang Trung Quốc thời xưa mà không cầm chắc có ngày về…
Nguyễn Tất Thành rời Huế đến Bình Định sau cha
Đầu tháng 6/1909, được
tin cha mình (Nguyễn Sinh Huy) chắc chắn sẽ nhậm chức tri huyện Bình Khê tỉnh
Bình Định, Nguyễn Tất Thành đã có thể tạm yên tâm với cuộc sống của cha và gia
đình, sau khi mình ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Cuối tháng 6 cùng năm,
Nguyễn Tất Thành, sau khi học xong lớp trung đẳng ở Trường quốc học Huế, đã
quyết định rời Huế ra đi theo mục đích đã định. Bình Định là trạm dừng chân đầu
tiên của Nguyễn Tất Thành trên con đường thiên lý đầy gian lao, thử thách.
Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016
Hạt nhân trong bản Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh
Tính từ ngày Bác (Chủ tịch Hồ Chí
Minh) viết bản di chúc cuối cùng (19-5-1969), hơn 40 năm đã trôi qua mà cứ ngỡ
thời gian có chiều ngược lại! Bản di chúc của Bác biểu hiện tập trung chủ nghĩa
nhân văn cao cả và triệt để, gửi gắm tâm nguyện của một bậc vĩ nhân suốt đời phấn
đâu đến phút giây cuối cùng vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
và nhân loại. Di chúc của Bác đã truyền niềm tin tất thắng và như túi cẩm nang
thần kỳ đưa đường, chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân ta tiến bước vững chắc trên
con đường cách mạng không ngừng.
HỒ CHÍ MINH VỀ “GIÚP BẠN LÀ TỰ GIÚP MÌNH”
Trong lý luận
cũng như trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh mối qyan hệ
khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Người viết: “
Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính
quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa. Nếu người
ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[1]. Người kêu gọi giai cấp
công nhân các nước phương Tây phải đẩy mạnh việc ủng hộ cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Trong những bài phát biểu tại Đại hội lần
thứ V (1924) Quốc tế cộng sản, Người nói: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng,
hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở
các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho
các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc.
Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng”[2]. Vì vậy, muốn đánh thắng
chủ nghĩa đế quốc, trước hết cần xóa bỏ hệ thống thuộc địa của nó. Từ đó, Người
đề xuất luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động và có thể giành thắng
lợi trược cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu
nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của
bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và
trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ
nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em phương Tây trong nhiệm vụ
giải phóng hoàn toàn”[3]
BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA THI ĐUA YÊU NƯỚC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Cách đây 60 năm, ngày 11 tháng 6 năm
1948, Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Hưởng ứng lời kêu gọi
của Người, cả dân tộc ta đã tích cực tham gia các phong trào thi đua ái quốc
liên tục do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo và tổ chức. Kết quả thật là to lớn, thật là vĩ đại- tạo ra sức mạnh
tổng hợp vô địch, quyết định sự thắng lợi ngày càng to lớn hơn của cách mạng
nước ta.
Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016
ĐỒNG CHÍ HÀ HUY TẬP TỔNG BÍ THƯ ĐẦY NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 1936-1938
Tháng 4-1936,
Mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong Tổng tuyển cử. Tháng 6 cùng năm, Mặt
trận thành lập Chính phủ mới ở Pháp, theo khuynh hướng tiến bộ, do Lêông
Blum-Chủ tịch Đảng Xã hội làm Thủ tướng. Chính phủ của Mặt trận bình dân lên cầm
quyền đã ban bố một số quyền tự do dân chủ, cải thiện chế độ làm việc cho nhân
dân lao động, ân xá hoặc giảm án tù chính trị, thành lập phái đoàn của Quốc hội
Pháp cử sang các nước thuộc địa để điều tra tình hình… Những cải cách của Chính
phủ Pháp có tác động lớn tới nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu
tranh đòi các quyền tự do dân chủ, chống chiến tranh, chống bọn phản động thuộc
địa, bảo vệ hoà bình… Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải có “con đường chính trị
mới”. Đồng chí Hà Huy Tập được phân công về nước lãnh đạo cách mạng. Đồng chí
đã đáp ứng được đòi hỏi đó, đưa cách mạng nước ta giành nhiều thắng lợi to lớn.
Giá trị đạo đức với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bác)
là kết tinh những triết lý nhân sinh vừa cô đọng, sâu sắc, ở tầm cao lý luận, vừa
cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Rõ nhất là những điều mong muốn cuối cùng của
Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà
bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự
nghiệp cách mạng thế giới”[1]. Đó là những mục tiêu vừa là
trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta, đòi hỏi toàn Đảng,
toàn dân ta phải tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để thực hiện thắng
lợi những mục tiêu ấy, Bác thiết tha mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, trước
hết là mỗi đảng viên và cán bộ, phải nêu gương suốt đời tu dưỡng và thực hành đạo
đức cách mạng.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM
Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...
-
Là người biết kế thừa, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hoá nhân loại vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tư tưởng ...
-
Thời kỳ trước và sau những ngày đầu Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đất nước ta, dân tộc ta vẫn còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ...
-
Từ giá trị truyền thống “Kính trọng người hiền tài” đến tư tưởng “Tìm người tài đức” của Hồ Chí MinhTrong lịch sử dân tộc, những người tài đức [1] (hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại phong kiế...