Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM


Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm tương đồng và khác biệt về con đường cách mạng Đông Dương, chủ yếu là cách mạng Việt Nam, giữa Hồ Chí Minh với Quốc tế Cộng sản. Về bối cảnh ngoài nước – thường gọi là tình hình thế giới – được nổi bật bởi những sự kiện thuộc về phong trào cộng sản quốc tế đang lớn mạnh và nguy cơ của một cuộc chiến tranh thế giới mới đã thành hiện thực – chiến tranh thế giới lần thứ hai mở màn.
Về đường lối cách mạng Việt Nam nói riêng và cách mạng Đông Dương nói giữa Hồ Chí Minh với quốc tế cộng sản có những điểm tương đồng dưới đây:

Ảnh hưởng của một số tư tưởng Thiên chúa giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.


Là người biết kế thừa, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hoá nhân loại vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức bác ái cao cả của Thiên chúa giáo cũng như nhiều tư tưởng về con người của tôn giáo lớn nhất thế giới nay. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ thế giới quan duy tâm của Thiên chúa giáo. Tuy thế giới quan ấy đối lập với thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghĩa là đối lập với thế giới của Người, nhưng Người vẫn tôn trọng quyền tự to tín ngưỡng – theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi người nói chung và những tín đồ Thiên chúa giáo nói riêng. Người chỉ kiên quyết phê phán và chống lại sự lợi dụng tôn giáo, xuyên tạc tôn giáo của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch này chính là bọn thực dân, đế quốc xâm lược, chúng đã xuyên tạc và lợi dụng tôn giáo vào mục đích gây chiến tranh xâm lược các nước hòng bắt nhân dân các nước này cam chịu sự thống trị và bóc lột tàn bạo của chúng. Tất cả những vấn đề đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên hai mặt: Một mặt, Hồ Chí Minh kế thừa, đề cao những mặt tốt, vận dụng sáng tạo những mặt tốt ấy để làm phong phú thêm tư tưởng của Người về đại đoàn kết, cả đoàn kết toàn dân trong quốc gia dân tộc và đoàn kết quốc tế, và đề cao, động viên đồng bào Thiên chúa giáo trong và ngoài nước tham gia đông đảo vào khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết nhân dân toàn thế giới, tăng thêm lực lượng cho cách mạng.

HỒ CHÍ MINH - NGƯỜI ĐẶT NỀN MÓNG CHO NGOẠI GIAO ĐA PHƯƠNG VIỆT NAM

Trong khi nước Việt Nam không có tên trên bản đồ thế giới, dân tộc Việt Nam bị chìm đắm trong đêm dài đen tối của ách đô hộ thực dân thì anh thanh niên Nguyễn Tất Thành bôn ba đến mấy chục nước trên thế giới để tìm đường cứu nước, đã tham gia hoạt động trong phong trào cách mạng của nhân dân bị áp bức nhiều nước châu á, châu Phi, châu Âu, châu Mỹ. Từ đầu thập niên 1920 "Hội liên hiệp thuộc địa" và tờ báo "Người cùng khổ" (Le Paria) do Nguyễn ái Quốc cùng một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp sáng lập tại Paris là một trong những minh chứng cụ thể của tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại đa phương với nhận thức sâu sắc rằng chủ nghĩa thực dân đế quốc là kẻ thù chung của các dân tộc bị áp bức, do vậy Người luôn quan tâm xây dựng khối đoàn kết chiến đấu giữa những người cùng cảnh ngộ, xây dựng "mối tình hữu ái vô sản". Nói cách khác, ngay từ lúc bấy giờ Nguyễn ái Quốc đã làm công tác "dân vận quốc tế" hay "ngoại giao nhân dân đa phương", làm cho bạn bè trên thế giới hiểu rõ tình cảnh của dân tộc ta, từ đó đồng tình ủng hộ sự nghiệp cách mạng và đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh với nền ngoại giao đa phương

Như vậy Nguyễn ái Quốc đã đặt nền móng cho nền ngoại giao nhân dân và đa phương từ lâu trước khi có ngoại giao nhà nước và song phương cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Mặt trận nhân dân thế giới được hình thành trên thực tế, đoàn kết ủng hộ mạnh mẽ hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là sự gặt hái thành quả tất yếu của ngoại giao nhân dân mà Người đã có công gieo giống tốt trong những năm hoạt động ở hải ngoại. 
Bản "Yêu sách của nhân dân An nam" mà Nguyễn ái Quốc, thay mặt "Nhóm những người yêu nước An nam" gửi đến trưởng đoàn các nước dự Hội nghị Véc-xây (Pháp) sau khi kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất thể hiện sự nhạy bén, kịp thời nắm bắt thời cơ và sử dụng diễn đàn ngoại giao đa phương rộng lớn nhất lúc bấy giờ để trình bày thẳng với các cường quốc 8 yêu sách về những quyền tự do cơ bản tối thiểu của nhân dân ta. Bản yêu sách có tiếng vang lớn, làm cho bọn thực dân Pháp hoảng sợ, bọn bồi bút của chúng hốt hoảng la ó

Thứ Ba, 16 tháng 5, 2017

THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


Kế thừa những tư tưởng đề cao vị trí, vai trò của dân trong truyền thống văn hóa phương Đông; những giá trị tốt đẹp trong nền dân chủ chủ nô thời cổ đại Hy lạp, thời Phục hưng, trong nền dân chủ Tư sản và quan trọng nhất là nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, mà theo V.I.Lênin thì đó là một nền dân chủ cao hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản. Bởi vì: “Lần đầu tiên, ở đây, chế độ dân chủ phục vụ quần chúng, phục vụ những người lao động” [1]. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Hồ Chí Minh đã xây dựng nền dân chủ kiểu mới ở Việt Nam với chính thể “Dân chủ cộng hòa” nhằm đảm bảo cho dân tộc “Độc lập”, dân quyền “Tự do” và dân sinh “Hạnh phúc”. Với luận điểm: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[2] đã đưa Hồ Chí Minh lên hàng đầu những nhà dân chủ tiên tiến nhất trên thế giới, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin. Hạt nhân của luận điểm sáng tạo đó là Người đã phân tích rõ về vai trò của thực hành dân chủ trong Đảng.

ĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC ĐỘĐỘNG LỰC NGUYỄN TẤT THÀNH RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC


Sự kiện Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh sau này) một mình ra đi tìm đường cứu nước, ngày 5 – 6 -1911, có ý nghĩa lịch sử lớn: Là mốc son đánh dấu sự kết thúc hơn 50 năm bế tắc công cuộc đấu tranh chông thực dân Pháp, cứu nước của ông cha, đồng thời khởi nguồn mở ra một thời kỳ mới trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc và phát triển đất nước ta, nổi bật là thời kỳ đổi mới đất nước do Đảng ta lãnh đạo ngày nay. Tìm hiểu những gì tác động như là động lực thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước góp phần không nhỏ làm sâu sắc thêm những ý nghĩa lịch sử đó.
Bến cảng Nhà Rồng - Nơi Người a đi tìm đường cứu nước
Khi bàn về động lực Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước có thể nói đó chính là yêu cầu thực tiễn nóng bỏng đòi hỏi cấp thiết phải tìm ra một con đường cứu nước mới trước một thực tế đau xót là các cuộc khởi nghĩa và phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược của nhân dân ta từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX đều lần lượt thất bại. Nguyễn Tất Thành là người sớm nhận thức được yêu cầu của thực tiễn đó trên cơ sở của những nguồn động lực nội sinh ở một bậc vĩ nhân được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử thời đó. Đó là lòng nồng nàn yêu nước đã được nâng lên thành khát vọng cứu nước, cứu dân; là truyền thống “một dân tộc độc lập và một quốc gia có chủ quyền” trong suốt chiều dài đấu tranh giữ nước của dân tộc; là những kinh nghiệm được đúc kết thành triết lý chiến thắng trong đấu tranh chống giặc của cha ông, là đạo hiếu của một người con được cha mẹ và gia đình đặt niềm tin tưởng…

LAI CHÂU LUÔN TRONG TIM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH


Nguyện hiến dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến năm 1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa hoạt động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1]. Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[2].
Tượng đài Bác Hồ vói các dân tộc
        Tình thương yêu con người và hết lòng chăm lo cho hạnh phúc của con người ở Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa bao la, vừa sâu sắc, cụ thể thiết thực. Người không chỉ chăm lo cho hạnh phúc chung cho toàn dân tộc Việt Nam, mà còn chăm lo hạnh phúc cho mỗi con người cụ thể ( “Sữa để em thơ, lụa tặng già…”) không phân biệt dâj tộc (tộc người: Kinh, Mường, Mán, Thái, Mèo, Tày, Nùng, ÊĐê, BaNa, XêĐăng…), tôn giáo, tầng lớp, nghề nghiệp, đảng phái, giới tính, tuổi tác, vùng miền…Trong đó, trên tinh thần  đảm bảo nguyên tắc bình đẳng và công bằng cho các dân tộc và mỗi con người về nghĩa vụ và quyền lợi phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn giành sự quan tâm sâu sắc cho đồng bào ở các tỉnh xa sôi, hẻo lánh, vùng núi cao, biên giới, hải đảo – những nơi, so với những tỉnh khác, điều kịên cho sự xây dựng và phát triển kinh tế-xã hội gặp rất nhiều khó khăn mà không thể một sớm một chiều khắc phục ngay được. Một trong số các tỉnh được Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, động viên và chăm sóc đặc biệt là tỉnh Lai Châu[3]

Thứ Hai, 24 tháng 4, 2017

Đồng chí Nguyễn Văn Linh với thế hệ trẻ Việt Nam


Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, với niềm tin tất thắng vào sự thành công của cách mạng nước nhà, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (Bác Hồ) và Đảng cộng sản Việt Nam; với bản chất thông minh, ham học hỏi, tác phong lãnh đạo rất cụ thể, cẩn trọng, sâu sát quần chúng, năng động sáng tạo, kiên định lập trường, đầy tinh thần trách nhiệm... đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đem hết trí tuệ, đạo đức, tài năng tham gia lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng chí đã đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau, có cả những thời kỳ "ba chìm bảy nổi"[1], và cao nhất là đảm nhận trọng trách Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam khoá VI (1986-1971). Những quan điểm sáng tạo của Đồng chí về đổi mới đất nước cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Sự thành công rực rỡ trong quá trình đổi mới đất nước cho đến nay đã khắc đậm dấu ấn đồng chí Nguyễn Văn Linh. Lịch sử của công cuộc đổi mới, lịch sử dân tộc ta mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn của Đồng chí như là một trong những người đi đầu và và có công đầu đưa đất nước ta tiến vào một kỷ nguyên phát triển mới thực hiện lời thề son sắt của cả dân tộc ta trong việc thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.
Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh
          Dù ở bất kỳ cương vị lãnh đạo nào trong Đảng, đồng chí Nguyễn Văn Linh cũng luôn luôn nhận thức sâu sắc và đề cao vị trí, vai trò của thế hệ trẻ Việt Nam trong cách mạng, coi họ vừa là động lực to lớn, ở cả hiện tại và tương lai, vừa là mục tiêu của cách mạng. Đồng thời, Đồng chí cũng luôn biết phát huy vị trí, vai trò to lớn của thế hệ trẻ bằng những chủ trương, đường lối, giải pháp đúng đắn, khoa học, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử nước nhà.
          Bước đầu vào tuổi học đường (năm học 1925-1926), cậu học trò Nguyễn Văn Cúc (tên đầu của đồng chí Nguyễn Văn Linh) đã cùng các bạn bàn bạc với nhau về tương lai sao cho xứng đáng với thanh niên Việt Nam, với con Lạc, cháu Hồng. Cậu Cúc đã cùng nhiều bạn hồ hởi tham gia phong trào đọc và tuyên truyền các sách báo cách mạng, nhất là các bài viết của Nguyễn Ái Quốc, do tổ chức Thanh niên Trường Bonnan[2] tổ chức. Tuy tuổi còn nhỏ, nhưng với sự mẫn tiệp và tích cực tham gia phong trào, cậu Cúc đã được kết nạp vào Học sinh đoàn do Chi hội Thanh niên ở Trường Bonnan thành lập. Cũng từ đây, ý thức về bổn phận của người thanh niên đối với tổ quốc, với nhân dân ngày càng sâu sắc trong tâm khảm của Nguyễn Văn Cúc. Dưới sự hướng dẫn của tổ chức, anh thanh niên Nguyễn Văn Cúc đã cùng với bạn bè tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh của thợ thuyền thành phố Hải Phòng.

Ảnh hưởng của một số tư tưởng Thiên chúa giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.


I.       Là người biết kế thừa, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hoá nhân loại vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức bác ái cao cả của Thiên chúa giáo cũng như nhiều tư tưởng về con người của tôn giáo lớn nhất thế giới nay. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ thế giới quan duy tâm của Thiên chúa giáo. Tuy thế giới quan ấy đối lập với thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghĩa là đối lập với thế giới của Người, nhưng Người vẫn tôn trọng quyền tự to tín ngưỡng – theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi người nói chung và những tín đồ Thiên chúa giáo nói riêng. Người chỉ kiên quyết phê phán và chống lại sự lợi dụng tôn giáo, xuyên tạc tôn giáo của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch này chính là bọn thực dân, đế quốc xâm lược, chúng đã xuyên tạc và lợi dụng tôn giáo vào mục đích gây chiến tranh xâm lược các nước hòng bắt nhân dân các nước này cam chịu sự thống trị và bóc lột tàn bạo của chúng. Tất cả những vấn đề đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên hai mặt: Một mặt, Hồ Chí Minh kế thừa, đề cao những mặt tốt, vận dụng sáng tạo những mặt tốt ấy để làm phong phú thêm tư tưởng của Người về đại đoàn kết, cả đoàn kết toàn dân trong quốc gia dân tộc và đoàn kết quốc tế, và đề cao, động viên đồng bào Thiên chúa giáo trong và ngoài nước tham gia đông đảo vào khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết nhân dân toàn thế giới, tăng thêm lực lượng cho cách mạng. Mặt khác, Hồ Chí Minh cũng vạch mặt bọn thực dân, đế quốc xâm lược lợi dụng tôn giáo, giả danh Chúa vào mục đích, âm mưu “chia để trị”: gây thù hằn giữa cộng sản với tôn giáo; gây thù hằn giữa đồng bào lương với đồng bào giáo; thù hằn dân tộc này với dân tộc khác… để phục vụ cho mục tiêu xâm lược và chống cộng sản của chúng v.v… Vì vậy, để thấy rõ bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh, thì việc làm rõ những tư tưởng hợp lý ở trần tục của Thiên chúa giáo, có ảnh hưởng trực tiếp đến tư tưởng Hồ Chí Minh là một điều rất cần thiết. Đây là một mảng cơ sở lý luận rất quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh mà lâu nay việc nghiên cứu vẫn còn rất khiêm tốn.

Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước Một số quan điểm của Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước


1. Để khơi dậy, phát huy (huy động, động viên) được lực lượng và tinh thần to lớn của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thì quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là phải phát động phong trào thi đua rộng lớn hướng vào thực hiện thắng lợi những mục tiêu của cách mạng. Hồ Chí Minh viết: “Từ cuộc vận động tăng gia sản xuất và luyện quân lập công, chúng ta đã tiến đến phong trào thi đua ái quốc khắp mọi mặt, mọi nơi. Với lòng nồng nàn yêu nước và lực lượng vô tận của nhân dân ta, cuộc thi đua ái quốc nhất định sẽ thành công to. Vì vậy mà thắng lợi càng nhất định về tay ta”[1].
Hồ Chí Minh với Thi đua yêu nước
          2. Ở nhiều bài viết và buổi nói chuyện của Người với các tầng lớp nhân dân, và quân đội ta, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: không nên tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày, “thật ra, công việc hàng ngày chính là nền tảng của thi đua”[2] để phấn đấu “mỗi ngày lập một chiến công”[3]. Ở quan điểm này, Người nêu rõ ví dụ: Từ trước đến giờ ta vẫn ăn, vẫn mặc, vẫn ở. Nay ta thi đua ăn, mặc, ở cho sạch sẽ, cho hợp vệ sinh, cho khỏi đau ốm. Xưa ta vẫn làm ruộng, nay ta thi đua làm cho đất tốt hơn, sản xuất nhiều hơn v.v… Mọi việc thi đua đều như vậy. Từ những ví dụ đơn giản, thân quen hàng ngày và khái quát dễ hiểu, dễ làm như thế, Hồ Chí Minh mới nêu việc thực hiện mục đích chung của thi đua trong giai đoạn mới – giai đoạn chuẩn bị tổng phản công là “chương trình thi đua trong giai đoạn này là diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm, nhưng tiến lên một bước mạnh hơn”[4]. Như vậy nội dung chính, chỉ ra cái điều cần thiết của thi đua là đòi hỏi mọi người tham gia thi đua phải huy động tổng hợp trí tuệ, tài năng, sức mạnh của mình đến mức cao độ, đến mức nảy sinh sáng kiến (có sáng tạo) để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ của mình, thậm chí cả đối với những nhiệm vụ rất khó khăn, phức tạp nặng nề, mà nếu không có tinh thần thi đua với ý chí, quyết tâm cao thì không thể làm được. Kết quả công việc ngày hôm nay cho dù rất khó khăn, nặng nề… vẫn phải cao hơn, nhiều hơn, tốt hơn ngày hôm qua – đó chính là mệnh lệnh của thi đua ái quốc, “mỗi ngày lập một chiến công”, như Hồ Chí Minh đã giải thích rõ ràng: “Nói là thế này: Bất kỳ hạng người nào, bất kỳ nghề nghiệp gì, ai cũng thi đua nhau:

Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017

PHẢI CHĂNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN NGÀY NAY ĐÃ MẤT VAI TRÒ LỊCH SỬ

Nhận định về cống hiến của chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin nhấn mạnh: “Điểm chủ yếu trong học thuyết của Mác là ở chỗ nó làm sáng tỏ vai trò lịch sử thế giới của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa”... Từ trước đến nay trong lịch sử phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề chủ yếu này luôn gặp phải sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch chống cộng với các màu sắc khác nhau.
GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Hiện nay, trên các diễn đàn cũng như trên các trang mạng xã hội đã và đang xuất hiện nhiều quan điểm cho rằng giai cấp công nhân hiện nay đã mất đi vai trò lịch sử của mình. Phải chăng giai cấp công nhân hiện nay đã mất đi vai trò lịch sử của mình hay các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc, chống phá hòng bôi nhọ ảnh hưởng, phá bỏ vai trò của giai cấp công nhân hiện nay?

Thứ Tư, 15 tháng 3, 2017

CẦN PHẢI HIÊU CHO ĐÚNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta
Hiện nay, trên các diễn đàn và trên các trang mạng xã hội xuất hiện một số quan điểm của các tổ chức và cá nhân có quan điểm hạ thấp hoặc tuyệt đối hóa vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh? Phủ nhận vai trò của chủ nghĩa Mác Lênin ở nước ta? Vậy cần phải hiểu sao đúng về tư tưởng Hồ Chí Minh? Đây cũng là một trong những cách để làm thất bị mọi âm mưu của các thế lực thù địch đang cố tình xuyên tạc, phủ nhận vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh. Bởi chỉ có hiểu đúng bản chất thì chúng ta mới có biện pháp đấu tranh sao cho hiệu quả nhất?
Đại hội IX, đã định nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh như sau: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”[1].

Ảnh hưởng của một số tư tưởng Thiên chúa giáo trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại
I.       Là người biết kế thừa, vận dụng sáng tạo tinh hoa văn hoá nhân loại vào lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao tư tưởng đại đồng, tư tưởng nhân văn, tư tưởng đạo đức bác ái cao cả của Thiên chúa giáo cũng như nhiều tư tưởng về con người của tôn giáo lớn nhất thế giới nay. Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ thế giới quan duy tâm của Thiên chúa giáo. Tuy thế giới quan ấy đối lập với thế giới quan duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, nghĩa là đối lập với thế giới của Người, nhưng Người vẫn tôn trọng quyền tự to tín ngưỡng – theo hoặc không theo một tôn giáo nào của mọi người nói chung và những tín đồ Thiên chúa giáo nói riêng. Người chỉ kiên quyết phê phán và chống lại sự lợi dụng tôn giáo, xuyên tạc tôn giáo của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch này chính là bọn thực dân, đế quốc xâm lược, chúng đã xuyên tạc và lợi dụng tôn giáo vào mục đích gây chiến tranh xâm lược các nước hòng bắt nhân dân các nước này cam chịu sự thống trị và bóc lột tàn bạo của chúng. Tất cả những vấn đề đó đều ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện trên hai

Vấn đề “Tiến bộ của nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta hiện nay

Vấn đề Tiến bộ nhân loại (Tiến bộ của nhân loại) không phải là vấn đề mới nhưng lại luôn luôn là vấn đề thời sự của mỗi thời đại kế tiếp nhau trong lịch sử. Vấn đề này có ý nghĩa lớn trong thời đại hiện nay nói chung và đối với nước ta nói riêng.
         
Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam 2013
Có nhiều cách thức nghiên cứu khác nhau phụ thuộc vào mục đích phát triển rộng hẹp hay riêng từng lĩnh vực kinh tế hay chính trị, văn hoá hay con người, quốc gia hay quốc tế, dân tộc hay thời đại v.v… Vì vậy không nên quan niệm theo cách nói là “cách tiếp cận”. “Tiếp cận” theo nghĩa thực là tiếp gần tới một sự vật, hiện tượng nào đó. Do đó tiếp cận chỉ là bước chuẩn bị để đi sâu vào nghiên cứu, mổ xẻ sự vật, chứ chưa cho phép hiểu được bản chất sự vật, hiện tượng. Vì vậy chỉ bằng “cách tiếp cận” mà đặt ra yêu cầu, phải làm rõ “vấn đề tiến bộ nhân loại” thì chỉ là ảo tưởng, chủ quan duy ý chí. Để làm rõ được khái niệm “tiên bộ nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải nghiên cứu toàn diện tư tưởng của Người và những hoạt động thực tiễn của Người để thực hiện tiến bộ nhân loại theo tư tưởng đó.

Bổ nhiệm cấp phó tràn lan, không đạt chuẩn là điều đáng lo

VOV.VN - Việc nhiều địa phương, đơn vị “thừa” cán bộ, nhất là cấp phòng không còn là cá biệt đặt ra những dấu hỏi trong công tác cán bộ ở cơ sở.
Đại biểu Phạm Tất Thắng – Phó Chủ nhiệm Ủy ban VH-GD-TN-TN&NĐ của Quốc hội nhấn mạnh điều này khi trả lời phóng viên VOV.VN.
bo nhiem cap pho tran lan, khong dat chuan la dieu dang lo hinh 1PV: Các kết luận thanh tra của Bộ Nội vụ vừa qua cho thấy gần như tất cả địa phương, đơn vị được thanh tra đều có vi phạm trong công tác bổ nhiệm, tuyển dụng cán bộ ở mức độ khác nhau. Điều này cho thấy vấn đề gì, thưa ông?
Ông Phạm Tất Thắng: Kết quả thanh tra đó nói lên hai vấn đề. Thứ nhất, các quy định đã thể hiện rõ mỗi một cấp thì có bao nhiêu cấp phó, bao nhiêu cán bộ quản lý nên bố trí thừa là thể hiện sự không thượng tôn pháp luật và kỷ cương, kỷ luật công vụ không nghiêm.

Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Từ giá trị truyền thống “Kính trọng người hiền tài” đến tư tưởng “Tìm người tài đức” của Hồ Chí Minh


Trong lịch sử dân tộc, những người tài đức[1] (hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại phong kiến kính trọng, tôn vinh. Người tài đức là những người hiền nhân tài giỏi có phẩm chất đạo đức mẫu mực,có trí thức sâu rộng, biết đề ra phương thức đáp ứng được xu hướng của thời cuộc và đòi hỏi của thực tế, có nhiều sáng tạo trong công việc, có nhiều cống hiến to lớn cho dân, cho nước, thậm chí có thể mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử dân tộc. Trong đó, chủ yếu là đội ngũ vua quan giữ vai trò lãnh đạo – quản lý chủ chốt của bộ máy nhà nước phong kiến.

Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh Chuẩn mực đạo đức cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh


Hệ thống chuẩn mực (tiêu chuẩn, quy tắc, quy phạm...) đạo đức mới- đạo đức cách mạng là bộ phận chính của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, được Người dầy công xây dựng trên cơ sở tổng kết những tinh hoa đạo đức nhân loại, quan trọng nhất là đạo đức Mác- Lêni, và những yêu cầu thực tiễn của thời đại ở cả trong và ngoài nước. Hệ thống đó rất toàn diện, nhưng sâu sắc nhất là những chuẩn mực đạo đức cơ bản.
Những chuẩn mực đạo đức cơ bản đều có tính chung nhất, phổ biến nhất, sâu sắc nhất hợp thành hạt nhân và quy định bản chất của một nền hay một tư tưởng đạo đức. Nó thường được biểu hiện thành những chuẩn mực đạo đức đặc thù và cụ thể hơn cho những đối tượng, lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ THỰC HÀNH DÂN CHỦ TRONG ĐẢNG VÀ TRONG QUẦN CHÚNG NHÂN DÂN

Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, nhà
văn hóa lớn

Kế thừa những tư tưởng đề cao vị trí, vai trò của dân trong truyền thống văn hóa phương Đông; những giá trị tốt đẹp trong nền dân chủ chủ nô thời cổ đại Hy lạp, thời Phục hưng, trong nền dân chủ Tư sản và quan trọng nhất là nền dân chủ Xã hội chủ nghĩa, mà theo V.I.Lênin thì đó là một nền dân chủ cao hơn gấp triệu lần nền dân chủ tư sản. Bởi vì: “ lần đầu tiên, ở đây, chế độ dân chủ phục vụ quần chúng, phục vụ những người lao động”[1], Hồ Chí Minh, ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công (1945), lần đầu tiên, đã xây dựng nền dân chủ kiểu mới ở Việt Nam với chính thế “ Dân chủ cộng hòa” nhằm đảm bảo cho dân tộc “ Độc lập”, dân quyền “ Tự do” và dân sinh “ Hạnh phúc”. Với luận điểm: “Thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”[2] đã đưa Hồ Chí Minh lên hàng đầu  những nhà dân chủ tiên tiến nhất trên thế giới, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin. Hạt nhân của luận điểm sáng tạo đó là Người đã phân tích rõ mối quan hệ biện chứng của thực hành dân chủ trong Đảng với thực hành dân chủ trong quần chúng nhân dân (mà nhiều khi Người gọi là dân chúng). Người viết và nói nhiều về vấn đề này. Nhưng tập trung, nổi bật ở các bài: Sửa đổi lối làm việc (1947), Cách làm việc tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách (1948), Phê bình (1951), Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu (1952), Thường thức chính trị (1953), Cái “chìa khóa vạn năng” (1967)…và cuối cùng là ở Di chúc của Người (1965 – 1969)

Thứ Hai, 20 tháng 2, 2017

Giá trị thực tiễn của tác phẩm Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân

Đầu năm 1969, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang gần đến ngày toàn thắng, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đang trên đà phát triển. Nhưng trong đó đã xuất hiện không ít số cán bộ, đảng viên chủ quan, ngại khó, ngại hy sinh gian khổ, muốn xả hơi… và nguy hiểm nhất là khuynh hướng lợi dụng tình hình thuận lợi và cả khó khăn của cách mạng để mưu cầu danh, lợi cho cá nhân, gia đình, ê kíp… Những diễn biến tiêu cực này ảnh hưởng không nhỏ tới tinh thần quyết tâm “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào”[1] của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Để khắc phục những hiện tượng xuống cấp này về mặt đạo đức và để thiết thực kỷ niệm 39 năm ngày thành lập Đảng (3/2/1930 – 3/2/1969), chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết bài báo Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, đăng trên Báo Nhân dân số 5409, ngày 3/2/1969.

Tôn Đức Thắng – tấm gương mẫu mực thực hiện “Đời sống mới”.

Hồ Chí Minh và Tôn Đức Thắng – hai Bác như hai người tri kỷ. Hồ Chí Minh rất tin tưởng Tôn Đức Thắng. Tôn Đức Thắng rất tin tưởng và kính trọng Hồ Chí Minh. Tôn Đức Thắng luôn tâm niệm và thực hiện những lời dạy của Hồ Chí Minh về người cán bộ cách mạng, trong đó trước hết là lời dạy “Cán bộ và đời sống mới”: “Cán bộ muốn xứng đáng, phải làm được việc. Muốn làm được việc thì phải được dân tin, dân phục, dân yêu. Muốn được dân tin, dân phục, dân yêu, cán bộ phải tự mình làm đúng đời sống mới. Nghĩa là phải siêng năng, tiết kiệm, trong sạch, chính đáng”[1]. Là người gánh vác nhiều trọng trách trong Đảng, Nhà nước và Mặt trận…, Bác Tôn Đức Thắng chẳng những đã làm tròn trách nhiệm của người cán bộ cách mạng mà còn nêu tấm gương mẫu mực về thực hành Đời sống mới với nội dung chính là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Với tấm gương ấy, ở Tôn Đức Thắng đã toả sáng một đạo đức mới, một niềm tin cách mạng, có sức cảm hoá sâu sắc, có sức thu hút, tập hợp lực lượng to lớn cho thành công của công cuộc Đời sống mới. Đó cũng chính là đóng góp lớn nhất của Bác cho cách mạng nước ta:

Các giá trị văn hoá dân tộc – cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”[1], trong đó nổi bật, triệt để nhất là những quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam nói chung, về CNXH nói riêng được hình thành và phát triển, hoàn thiện dựa trên nhiều cơ sở như là sự kết tinh tinh hoa trí tuệ của nhân loại, mà cơ sở xuất phát điểm đầu tiên, tiên quyết là “kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[2]. Nghiên cứu, làm sâu sắc vai trò của các giá trị tốt đẹp của dân tộc, tức là các giá trị văn hoá dân tộc, trong việc hình thành những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH, có nhiều ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với cả quá trình tiến triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay. Bởi vì công cuộc đổi mới, do Đảng ta khởi xướng, chính là một đường hướng mới, sáng tạo nhằm hiện thực hoá những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta và trên thế giới trong điều kiện mới, tuy biết rằng đây là một con đường đầy chông gai thử thách với những diễn tiến phức tạp, khó lường, nhưng có lẽ “không còn con đường nào khác” để đảm bảo cho sự thành công của CNXH ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên CNXH “không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Thứ Hai, 13 tháng 2, 2017

ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH – TỔNG CÔNG TRÌNH SƯ NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM, KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC

ĐỒNG CHÍ LÊ DUẨN TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU MIỀN NAM KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1957)

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đưa đến việc ký kết Hiệp định Genéve lập lại hòa bình ở Việt Nam. Theo Hiệp định này, đối phương tạm thời kiểm soát từ nam vĩ tuyến 17 trở vào và được gọi chung là miền Nam nước ta. Từ tháng 7 – 1954, lịch sử miền Nam chuyển sang thời kỳ mới. Lúc bấy giờ miền Nam rộng khoảng 170.850 Km2, dân số khoảng 12.261.ooo người với nhiều dân tộc như Kinh, Gia-Rai, Ê Đê, Ba Na, K.Ho, Stiêng, Cùa, Bờ Râu, Chơ Ru, Mnông, Khơme… nhưng đông nhất là người Kinh chiếm khoảng 85%. Về tôn giáo, ở miền Nam có 2 tôn giáo lớn là Phật giáo và Thiên Chúa giáo, ngoài ra còn có một số người theo đạo Tin Lành, giáo phái Hòa Hảo và Cao Đài. Nhân dân miền Nam luôn phát huy truyền thống yêu nước quật cường, đi đầu trong các phong trào chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng.

CHỦ NGHĨA YÊU NƯỚC HỒ CHÍ MINH – CỘI NGUỒN SÂU SẮC CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠI ĐOÀN KẾT HỒ CHÍ MINH

MỘT SỐ ĐÓNG GÓP CỦA ĐỒNG CHÍ PHẠM HÙNG ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG CÔNG AN NHÂN DÂN

Đồng chí Phạm Hùng, tên thật là Phạm Văn Thiện, sinh ngày 11-6-1912, là con cả trong một gia đình có 9 người con tại ấp Long Thiềng, làng Long Hồ, tổng Long Bình, huyện Vĩnh Bình, tỉnh Vĩnh Long (nay là xã Long Phước, huyện Long Hồ, tỉnh Vĩnh Long). Đồng chí tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Năm 1928-1929 đồng chí hoạt động trong phong trào thanh niên học sinh, tham gia tổ chức “Nam kỳ học sinh liên hiệp hội” và “Thanh niên Cộng sản Đoàn”. Năm 1930, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Năm 1931, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và kết án tử hình, như do phong trào đấu tranh của nhân dân ta trong nước cùng Đảng Cộng sản và nhân dân Pháp, chúng giảm án xuống chung thân khổ sai và đày đồng chí ra Côn Đảo.

ĐỒNG CHÍ PHẠM HÙNG - NGƯỜI HỌC TRÒ XUẤT SẮC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...