Thứ Hai, 26 tháng 12, 2016

VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI PHÁT TRIỂN VĂN HÓA

         Cho đến nay, văn hóa được hiểu với nghĩa chung nhất là “ tự nhiên xã hội hóa”, hay “Văn hóa là tất cả những cái gì không phải của tự nhiên”, cụ thể hơn là “ tích hợp những cái do con người sáng tạo ra và mang bản chất xã hội”...Cuối năm 1943, trên cơ sở tổng kết lý luận về văn hóa và phân tích rõ nguồn gốc, vai trò của các loại sản phẩm do con người sáng tạo ra, Hồ Chí Minh đã đưa ra một quan điểm toàn diện và cụ thể về văn hóa: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nhệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”[1]. Đây là quan điểm về văn hóa theo nghĩa rộng nhất, bao gồm tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, đạo đức, tâm lý.v.v.. Ở vào thời gian này, khi mà tình hình trong ngước và thế giới đang tạo ra thời cơ cho cách mạng dân tộc giải phóng nước ta giành thắng lợi đến gần, Hồ Chí Minh đã chủ trương xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam với năm điểm lớn:

ĐỒNG CHÍ VÕ CHÍ CÔNG VỚI CHỈ THỊ SỐ 100 CỦA BAN BÍ THƯ, NGÀY 13 THÁNG 1 NĂM 1981

Ngày 13 – 1 – 1981, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100 về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã (HTX) nông nghiệp.Trong hoàn cảnh thực tiễn sản xuất đang đòi hỏi cấp thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Trung ương còn có nhiều ý kiến trái chiều, thì Chỉ thị 100: “ là một bước đột phá quan trọng trên con đường tìm tòi đổi mới”[1]. Vấn đề đặt ra ở đây là: Khi mà trong Trung ương còn có nhiều ý kiến chưa đồng thuận, đồng chí Trường Chinh cũng chưa mặn mà với Chỉ thị 100[2], thì ai là người sớm nhận thức được yêu cầu của thực tiễn và tổ chức thực tiễn để “kiềm nghiệm chân lý”? Ai là người dũng cảm, cả quyết đứng ra nhận trách nhiệm tổ chực dự thảo và tổ chức thực hiện thành công Chỉ thị 100? Người đó, vào cuối năm 1979 đến đầu năm 1981, chính là đồng chí Võ Chí Công, bấy giờ đang là ủy viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng phụ trách khối nông, lâm, hải sản. Động chí Võ Chí Công, chẳng những là nhà lãnh đạo đứng đầu Liên khu năm, một chủ tướng lừng lẫy trong chiến tranh cách mạng, mà còn là một nhà lãnh đạo chính trị, kinh tế suất sắc của Đảng và Nhà nước ta trong thời bình. Những cống hiến to lớn của Đồng chí trong lãnh đạo xây dựng và phát triển kinh tế, trước và sau Đại hội VI của Đảng, đều bắt nguồn từ việc tìm tòi và giải đáp những đòi hỏi cấp bách của thực tiễn xây dựng và phát triển kinh tế nước ta lúc bấy giờ

LAI CHÂU LUÔN TRONG TIM CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Nguyện hiến dâng cả đời mình cho nước, cho dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ năm 1911 đến năm 1954, đã phải lăn lộn bôn ba nơi hải ngoại vừa tự lao động kiếm sống, vừa hoạt động tìm đường cứu nước; phải ra vào chốn tù tội; phải ẩn lấp nơi núi non…tất cả chỉ nhằm mục đích là cứu nước, cứu dân. Đầu năm 1946, khi trả lời các nhà báo, Người đã nói rõ mục đích này: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”[1]. Trong đó đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam là trước hết, có tính tiên quyết. Còn đấu tranh đem lại hạnh phúc cho nhân dân, cho mỗi con người Việt Nam để ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành mới là mục đích thiết thực nhất, cao nhất. Người đã khẳng dịnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[2].

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ TRUNG - HIẾU TRONG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC NGUYỄN TẤT THÀNH

Thời kỳ trước và sau những ngày đầu Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, đất nước ta, dân tộc ta vẫn còn chìm đắm trong đêm dài nô lệ cho thực dân Pháp. Cùng với những biến động lớn của đời sống chính trị, kinh tế,văn hóa, xã hội, trong thời kỳ diễn ra chính sách khai thác thuộc địa lần thứ nhất của tư bản Pháp, mối quan hệ đạo đức trung – hiếu cũng biến đổi tương ứng đòi hỏi được lý giải thỏa đáng.

ĐỒNG CHÍ NGUYỄN LƯƠNG BẰNG -VỊ ĐẠI SỨ ĐẶC MỆNH TOÀN QUYỀN ĐA QUỐC GIA (1952-1956)

Trong lịch sử hàng ngàn năm, người Việt Nam hoàn toàn có quyền tự hào về truyền thống dân tộc mình, nổi bật là truyền thống ngoại giao với nhiều vị sứ thần tài trí, mưu lược, dũng cảm quên mình, hoàn thành mệnh vua, nghĩa nước. Có nhiều vị sứ thần huyền thoại đến mức quân vương của nước thù địch cũng phải kính phục phong hàm “lưỡng quốc trạng nguyên” như Mạc Đĩnh Chi (đời Trần)…Những vị sứ thần này chẳng những không làm nhục quốc thể, mà còn tích cực trong đấu tranh ngoại giao, sáng tạo sử dụng các “thuật ngoại giao” vừa linh hoạt, mềm dẻo, vừa cứng rắn, kiên cường để tôn cao quốc thể, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đi sứ sang Trung Quốc thời xưa mà không cầm chắc có ngày về…

Nguyễn Tất Thành rời Huế đến Bình Định sau cha

Đầu tháng 6/1909, được tin cha mình (Nguyễn Sinh Huy) chắc chắn sẽ nhậm chức tri huyện Bình Khê tỉnh Bình Định, Nguyễn Tất Thành đã có thể tạm yên tâm với cuộc sống của cha và gia đình, sau khi mình ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Cuối tháng 6 cùng năm, Nguyễn Tất Thành, sau khi học xong lớp trung đẳng ở Trường quốc học Huế, đã quyết định rời Huế ra đi theo mục đích đã định. Bình Định là trạm dừng chân đầu tiên của Nguyễn Tất Thành trên con đường thiên lý đầy gian lao, thử thách.

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

Hạt nhân trong bản Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh

Tính từ ngày Bác (Chủ tịch Hồ Chí Minh) viết bản di chúc cuối cùng (19-5-1969), hơn 40 năm đã trôi qua mà cứ ngỡ thời gian có chiều ngược lại! Bản di chúc của Bác biểu hiện tập trung chủ nghĩa nhân văn cao cả và triệt để, gửi gắm tâm nguyện của một bậc vĩ nhân suốt đời phấn đâu đến phút giây cuối cùng vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và nhân loại. Di chúc của Bác đã truyền niềm tin tất thắng và như túi cẩm nang thần kỳ đưa đường, chỉ lối cho toàn Đảng, toàn dân ta tiến bước vững chắc trên con đường cách mạng không ngừng.

HỒ CHÍ MINH VỀ “GIÚP BẠN LÀ TỰ GIÚP MÌNH”

Trong lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh mối qyan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Người viết: “ Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[1]. Người kêu gọi giai cấp công nhân các nước phương Tây phải đẩy mạnh việc ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Trong những bài phát biểu tại Đại hội lần thứ V (1924) Quốc tế cộng sản, Người nói: “Tất cả các đồng chí đều biết rằng, hiện nay nọc độc và sức sống của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở các nước thuộc địa hơn là ở chính quốc. Các thuộc địa cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy; các thuộc địa cung cấp binh lính cho quân đội của chủ nghĩa đế quốc. Các thuộc địa trở thành nền tảng của lực lượng phản cách mạng”[2]. Vì vậy, muốn đánh thắng chủ nghĩa đế quốc, trước hết cần xóa bỏ hệ thống thuộc địa của nó. Từ đó, Người đề xuất luận điểm: Cách mạng giải phóng dân tộc cần chủ động và có thể giành thắng lợi trược cách mạng vô sản ở chính quốc. Người viết: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[3]

BẢN CHẤT VÀ Ý NGHĨA CỦA THI ĐUA YÊU NƯỚC TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Cách đây 60 năm, ngày 11 tháng 6 năm 1948, Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi thi đua ái quốc”. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, cả dân tộc ta đã tích cực tham gia các phong trào thi đua ái quốc liên tục do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và tổ chức. Kết quả thật là to lớn, thật là vĩ đại- tạo ra sức mạnh tổng hợp vô địch, quyết định sự thắng lợi ngày càng to lớn hơn của cách mạng nước ta.

Thứ Ba, 6 tháng 12, 2016

ĐỒNG CHÍ HÀ HUY TẬP TỔNG BÍ THƯ ĐẦY NĂNG ĐỘNG, SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG NHỮNG NĂM 1936-1938

Tháng 4-1936, Mặt trận bình dân Pháp giành thắng lợi trong Tổng tuyển cử. Tháng 6 cùng năm, Mặt trận thành lập Chính phủ mới ở Pháp, theo khuynh hướng tiến bộ, do Lêông Blum-Chủ tịch Đảng Xã hội làm Thủ tướng. Chính phủ của Mặt trận bình dân lên cầm quyền đã ban bố một số quyền tự do dân chủ, cải thiện chế độ làm việc cho nhân dân lao động, ân xá hoặc giảm án tù chính trị, thành lập phái đoàn của Quốc hội Pháp cử sang các nước thuộc địa để điều tra tình hình… Những cải cách của Chính phủ Pháp có tác động lớn tới nước ta, tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào đấu tranh đòi các quyền tự do dân chủ, chống chiến tranh, chống bọn phản động thuộc địa, bảo vệ hoà bình… Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải có “con đường chính trị mới”. Đồng chí Hà Huy Tập được phân công về nước lãnh đạo cách mạng. Đồng chí đã đáp ứng được đòi hỏi đó, đưa cách mạng nước ta giành nhiều thắng lợi to lớn.

Giá trị đạo đức với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

            Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bác) là kết tinh những triết lý nhân sinh vừa cô đọng, sâu sắc, ở tầm cao lý luận, vừa cụ thể, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm. Rõ nhất là những điều mong muốn cuối cùng của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1]. Đó là những mục tiêu vừa là trước mắt, vừa là chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu ấy, Bác thiết tha mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, trước hết là mỗi đảng viên và cán bộ, phải nêu gương suốt đời tu dưỡng và thực hành đạo đức cách mạng.

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2016

Hoạt động của đồng chí Phùng Chí Kiên ở Trung Quốc năm 1940

Đồng chí Phùng Chí Kiên là thành viên của Ban chỉ huy Đảng ở nước ngoài. Tại Đại hội Đảng lần thứ I, ở Macao Trung Quốc, đồng chí được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương. Đồng chí được Trung ương phân công, tiếp tục hoạt động ở Trung Quốc với nhiều trọng trách trong Ban chỉ huy của Đảng ở nước ngoài. Sau đó, đồng chí được Trung ương phân công, thay đồng chí Lê Hồng Phong về nước, chỉ đạo công tác Đảng ở nước ngoài.
Cuối năm 1939, đồng chí Phùng Chí Kiên chuyển từ khu du kích Sán Đầu về Côn Minh (Vân Nam) hoạt động. Thời kỳ này, Côn Minh là trung tâm kháng Nhật. Dân Nam Kinh, Bắc Kinh, Thượng Hải, Quảng Châu đổ về đây rất đông. Những hoạt động kinh tế, chính trị, văn hoá, quân sự tại đây cũng trở nên nhộn nhịp. Thời kỳ này, Quốc dân Đảng Trung Quốc đang hợp tác với Đảng cộng sản Trung Quốc kháng Nhật. Trong thành phố, nhiều cửa hàng bày bán các loại sách, báo tiến bộ, nhưng thành phố vẫn nằm dưới chế độ quân phiệt của tướng Long Vân. Pháp có đặt lãnh sự quán tại Côn Minh. Ảnh hưởng của Pháp với chính quyền Quốc dân Đảng tại Vân Nam còn khá mạnh. Kiều bào Việt Nam ở Côn Minh cũng khá đông. Đảng ta, được sự hỗ trợ của các đồng chí Trung Quốc, hoạt động bí mật. Bọn Việt Nam Quốc dân Đảng, dựa vào Quốc dân Đảng Trung Quốc hoạt động công khai… Trong điều kiện đó, đồng chí Phùng Chí Kiên về Côn Minh hoạt động có nhiều thuận lợi, nhưng vẫn phải giữ bí mật.
Đồng chí Phùng Chí Kiên ở một căn buồng nhỏ, trong một ngõ hẻm

ĐỒNG CHÍ TÔN ĐỨC THẮNG TRÊN CƯƠNG VỊ CHỦ TỊCH NƯỚC VẪN TỎA SÁNG TẤM GƯƠNG “TẬN TRUNG VỚI NƯỚC, TẬN HIẾU VỚI DÂN”

         Chủ tịch Tôn Đức Thắng sinh ngày 20/8/1888 trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước, tại cù lao Ông Hổ, tổng Định Thành, tỉnh Long Xuyên (nay là xã Mỹ Hoà Hưng, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang). Sinh ra và lớn lên khi đất nước đã bị thực dân Pháp xâm lược, đồng bào phải sống trong cảnh nô lệ lầm than, Tôn Đức Thắng vô cùng căm hận bọn thực dân cùng bọn phong kiến tay sai, sớm có ý định tìm đường cứu nước, cứu dân. Với lòng yêu nước thương nòi ấy, năm 1907, Tôn Đức Thắng đã tham gia tổ chức cuộc bãi công của học sinh trường Bá Nghệ và công nhân nhà máy sửa chữa tàu thủy Ba Son. Đây là thời điểm chính thức khởi đầu cho quá trình hoàn thiện một nhân cách lớn - nhân cách người cộng sản Tôn Đức Thắng suốt đời “Tận trung với nước, tận hiếu với dân”.

ĐỒNG CHÍ TRƯỜNG CHINH – TỔNG CÔNG TRÌNH SƯ NỀN VĂN HÓA MỚI VIỆT NAM, KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY NHỮNG GIÁ TRỊ TỐT ĐẸP CỦA TRUYỀN THỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC

Sinh ra, lớn lên trong một gia đình khá giả và một vùng quê có truyền thống văn hóa: cần cù trong lao động sản xuất, ham học hỏi những điếu hay lẽ phải, khoa bảng đỗ đạt cao trong các kỳ thi Hội, thi Đình thời Phong kiến[1]và yêu nước, thương nòi sâu sắc, Đặng Xuân Khu (tên của đồng chí Trường Chinh thời trẻ) được cha mẹ và gia đình giáo dục những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc, của Nho giáo. Nhận thức về văn hóa của Đặng Xuân Khu ngày càng rộng mở và sâu sắc nhờ biết chắt lọc những cái tốt đẹp của văn hóa phương Tây trong khối kiến thức được giảng dạy ở các trường Tiểu, Trung học Pháp – Việt và trường Cao đẳng Thương mại Đông Dương. Đồng chí Đặng Xuân Khu, sớm tham gia hoạt động cách mạng, giác ngộ lý luận Mác- Lênin và rèn luyện trong đấu tranh cách mạng, đổi tên là Trường Chinh, trở thành nhà lãnh đạo chủ chốt, cao cấp của Đảng. Đây là những thời điểm đánh dấu bước nghoặt cách mạng trong nhận thức về văn hóa, cả về chiều rộng và chiều sâu, của đồng chí Trường Chinh. Nhiều năm đảm nhiệm trọng trách Tổng bí thư của Đảng ( từ năm1940 đến năm 1956 và năm 1986), đồng chí Trường Chinh không chỉ là nhà kiến trúc sư chiến lược lỗi lạc trong việc hoạch định đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng, mà còn là nhà tổ chức tài năng, góp phần đưa cách mạng nước ta đến thành công ngày càng to lớn hơn. Một trong những cống hiến to lớn nhất của Đồng chí cho Đảng cho cách mạng nước nhà là hoạch dịnh và tổ chức thực hiện thành công đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam, mà cốt lõi là kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp của truyền thống văn hóa dân tộc trên nền tảng của chủ nghĩa Mác- lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Những cống hiến to lớn của Đồng chí về xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam được thể hiện rõ ở một số điểm nổi bật dưới đây:

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2016

Đồng chí Phạm Hùng với công tác cán bộ

Một Đảng cầm quyền khi đưa ra chủ trương, đường lối đúng đắn cần thiết phải có một đội ngũ cán bộ có năng lực và phẩm chất để thực hiện đường lối, chủ trương đó. Vì vậy, công tác cán bộ giữ một vị trí trọng yếu trong toàn bộ hoạt động của Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng vừa qua nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nghị quyết Trung ương 4 tập trung vào 3 vấn đề cấp bách: Thứ nhất, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Thứ hai, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là ở cấp Trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Thứ ba, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm cá nhân người đứng đầu cấp ủy, chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, chính quyền, cơ quan, đơn vị. Ba nội dung đó có quan hệ gắn bó với nhau, liên quan chặt chẽ đến công tác cán bộ của Đảng.

Đồng chí Nguyễn Văn Linh với thế hệ trẻ Việt Nam

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, với niềm tin tất thắng vào sự thành công của cách mạng nước nhà, dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh (Bác Hồ) và Đảng cộng sản Việt Nam; với bản chất thông minh, ham học hỏi, tác phong lãnh đạo rất cụ thể, cẩn trọng, sâu sát quần chúng, năng động sáng tạo, kiên định lập trường, đầy tinh thần trách nhiệm... đồng chí Nguyễn Văn Linh đã đem hết trí tuệ, đạo đức, tài năng tham gia lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đồng chí đã đảm nhận nhiều chức vụ khác nhau, có cả những thời kỳ "ba chìm bảy nổi"[1], và cao nhất là đảm nhận trọng trách Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt Nam khoá VI (1986-1971). Những quan điểm sáng tạo của Đồng chí về đổi mới đất nước cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Sự thành công rực rỡ trong quá trình đổi mới đất nước cho đến nay đã khắc đậm dấu ấn đồng chí Nguyễn Văn Linh. Lịch sử của công cuộc đổi mới, lịch sử dân tộc ta mãi mãi ghi nhớ công lao to lớn của Đồng chí như là một trong những người đi đầu và và có công đầu đưa đất nước ta tiến vào một kỷ nguyên phát triển mới thực hiện lời thề son sắt của cả dân tộc ta trong việc thực hiện Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ.

ĐOÀN KẾT VỚI TÔN GIÁO TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đoàn kết toàn dân – đoàn kết các dân tộc trong cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam – đại đoàn kết là tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, trong đó có các quan điểm về đoàn kết với tôn giáo. Đó là những quan điểm của Hồ Chí Minh về cơ sở, nội dung và vai trò của đoàn kết với tôn giáo đối với cách mạng nước ta.

Thứ Ba, 1 tháng 11, 2016

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ CHỐNG PHÁ


Hiện nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, các phương tiện smart phone ngày càng nhiều kèm theo internet phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống của nhân loại. Bên cạnh những lợi ích mà internet đưa lại thì đây cũng là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động chống phá.Và một trong những thủ đoạn phổ biến trong thời gian qua là chúng đã sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền, kích động chống phá, xuyên tạc sự thật.

PHẢN BIỆN XÃ HỘI HAY SỰ “NÉM ĐÁ HỘI ĐỒNG”

Phản biện xã hội là tất yếu trong đời sống chính trị - xã hội. Ở nước ta, những năm gần đây hoạt động này đã được quan tâm nhiều, nhất là sau khi “phản biện xã hội” được chính thức đưa vào văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X. Năm 2014, Bộ chính trị cũng đã có các quyết định số 217, 218 về việc ban hành quy chế phản biện và giám sát, góp ý xây dựng Đảng - Chính quyền của MTTQ, các tổ chức chính trị xã hội và nhân dân. Đảng và Nhà nước đã mở rộng dân chủ, tạo cơ chế và điều kiện cho hoạt động phản biện, đáng buồn là do những nhận thức lệch lạc trong điều kiện dân trí không đồng đều ở nước ta như hiện nay nên phản biện xã hội nhiều khi, với nhiều người đã vô tình hoặc hữu ý trở thành "công cụ" để xuyên tạc, gây rối, phá hoại xã hội, dẫn đến sự lợi dụng của “phản biện xã hội” để trở thành “ném đá hội đồng”

Nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội: Một xu hướng không thể cưỡng lại

GS, TS. GENNADY ZYUGANOV
Phó Chủ tịch Duma Quốc gia Nga (1995-2000), Đại học Quốc gia Matxcơva
Tóm tắt: “Trong tương lai xã hội loài người có còn chủ nghĩa xã hội hay không?” Câu hỏi này thực ra không có gì để tranh luận. Vấn đề là, chủ nghĩa tư bản có kiềm chế lâu dài sự tiến bộ của văn minh nhân loại hay không? Nhân loại sẽ hướng tới chủ nghĩa xã hội - một xu hướng không thể cưỡng lại, nhưng điều này không có nghĩa là ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, các điều kiện khách quan để chủ nghĩa tư bản quá độ sang chủ nghĩa xã hội đều đã chín muồi, và sự hình thành của các điều kiện khách quan chỉ là cơ sở vật chất cho việc xây dựng lại xã hội, tương lai phát triển của nó phụ thuộc vào sức sống của quốc gia với tư cách là chủ thể kinh tế - xã hội và những gì chưa sẵn sàng quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ là các yếu tố chủ quan hoặc nhân tạo. Phương thuốc tốt nhất để chữa trị căn bệnh tinh thần chống chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa cộng sản là nghiên cứu kỹ tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các nước trên thế giới, và thực tiễn xã hội chủ nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm cả Liên Xô.
Từ khóa Văn minh nhân loại; Phong trào dân chủ; Chủ nghĩa xã hội.

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

Từ giá trị truyền thống “Kính trọng người hiền tài” đến tư tưởng “Tìm người tài đức” của Hồ Chí Minh

Trong lịch sử dân tộc, những người tài đức[1] (hiền tài, nhân tài, hào kiệt…) bao giờ cũng được nhân dân ta và các triều đại phong kiến kính trọng, tôn vinh. Người tài đức là những người hiền nhân tài giỏi có phẩm chất đạo đức mẫu mực,có trí thức sâu rộng, biết đề ra phương thức đáp ứng được xu hướng của thời cuộc và đòi hỏi của thực tế, có nhiều sáng tạo trong công việc, có nhiều cống hiến to lớn cho dân, cho nước, thậm chí có thể mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử dân tộc. Trong đó, chủ yếu là đội ngũ vua quan giữ vai trò lãnh đạo – quản lý chủ chốt của bộ máy nhà nước phong kiến.

Các giá trị văn hoá dân tộc – cơ sở hình thành quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội

Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”[1], trong đó nổi bật, triệt để nhất là những quan điểm của Người về chủ nghĩa xã hội (CNXH). Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam nói chung, về CNXH nói riêng được hình thành và phát triển, hoàn thiện dựa trên nhiều cơ sở như là sự kết tinh tinh hoa trí tuệ của nhân loại, mà cơ sở xuất phát điểm đầu tiên, tiên quyết là “kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc”[2]. Nghiên cứu, làm sâu sắc vai trò của các giá trị tốt đẹp của dân tộc, tức là các giá trị văn hoá dân tộc, trong việc hình thành những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH, có nhiều ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với cả quá trình tiến triển của cách mạng Việt Nam, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay. Bởi vì công cuộc đổi mới, do Đảng ta khởi xướng, chính là một đường hướng mới, sáng tạo nhằm hiện thực hoá những quan điểm của Hồ Chí Minh về CNXH cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta và trên thế giới trong điều kiện mới, tuy biết rằng đây là một con đường đầy chông gai thử thách với những diễn tiến phức tạp, khó lường, nhưng có lẽ “không còn con đường nào khác” để đảm bảo cho sự thành công của CNXH ở một nước thuộc địa nửa phong kiến đi lên CNXH “không kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.

Thứ Hai, 17 tháng 10, 2016

Đồng chí Hoàng Quốc Việt trong sự nghiệp xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh giai đoạn 1930-1954

Năm 1930, đồng chí Hoàng Quốc Việt là một thanh niên công nhân có học, tràn đầy lòng yêu nước, nhưng còn đang phân vân, chưa biết nên theo Việt Nam quốc dân Đảng hay theo Đảng Tân Việt! Trong lúc đó đồng chí Hoàng Quốc Việt được đồng chí Nguyễn Đức Cảnh giác ngộ và kết nạp vào Đảng Thanh Niên (tức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội - Hội Việt Nam thanh niên cách mạng). Được sự dìu dắt của Nguyễn Đức Cảnh và say sưa nghiên cứu các sách báo cách mạng, nhất là các bài viết của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh) đồng chí Hoàng Quốc Việt đã hiểu sâu sắc những nguyên lý cách mạng của Chủ nghĩa Mác - Lênin, theo đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, được lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đúc kết: "Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Công nông là gốc cách mạng. Cách mạng muốn thắng lợi triệt để phải do giai cấp công nhân và đội tiền phong của nó thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin lãnh đạo. Cách mạng Việt Nam phải có mối liên hệ với cách mạng thế giới"[1]... Ngay khí đó đồng chí Hoàng Quốc Việt đã trở thành học trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc với luận điểm: "Bác là lá cờ đại nghĩa về đoàn kết"[2], mặc dù khi đó Hoàng Quốc Việt chưa được gặp Nguyễn Ái Quốc. Từ đó, cả cuộc đời cách mạng của Hoàng Quốc Việt luôn luôn tiến bước theo lá cờ đại nghĩa đó. Cắm lá cờ đại nghĩa đó lên đỉnh vinh quang của cách mạng nước nhà. Đồng chí Hoàng Quốc Việt đã trở thành người học trò xuất sắc nhất của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình hiện thực hoá tư tưởng đại đoàn kết của Người, đảm bảo vững chắc sự thắng lợi ngày càng rực rỡ của cách mạng Việt Nam.

Giá trị đạo đức với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Vấn đề “Tiến bộ của nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta hiện nay

Vấn đề Tiến bộ nhân loại (Tiến bộ của nhân loại) không phải là vấn đề mới nhưng lại luôn luôn là vấn đề thời sự của mỗi thời đại kế tiếp nhau trong lịch sử. Vấn đề này có ý nghĩa lớn trong thời đại hiện nay nói chung và đối với nước ta nói riêng.
          Có nhiều cách thức nghiên cứu khác nhau phụ thuộc vào mục đích phát triển rộng hẹp hay riêng từng lĩnh vực kinh tế hay chính trị, văn hoá hay con người, quốc gia hay quốc tế, dân tộc hay thời đại v.v… Vì vậy không nên quan niệm theo cách nói là “cách tiếp cận”. “Tiếp cận” theo nghĩa thực là tiếp gần tới một sự vật, hiện tượng nào đó. Do đó tiếp cận chỉ là bước chuẩn bị để đi sâu vào nghiên cứu, mổ xẻ sự vật, chứ chưa cho phép hiểu được bản chất sự vật, hiện tượng. Vì vậy chỉ bằng “cách tiếp cận” mà đặt ra yêu cầu, phải làm rõ “vấn đề tiến bộ nhân loại” thì chỉ là ảo tưởng, chủ quan duy ý chí. Để làm rõ được khái niệm “tiên bộ nhân loại” theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phải nghiên cứu toàn diện tư tưởng của Người và những hoạt động thực tiễn của Người để thực hiện tiến bộ nhân loại theo tư tưởng đó.

Chủ Nhật, 9 tháng 10, 2016

VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN KINH TẾ ĐỐI PHÁTTRIỂN VĂN HÓA

1-    Đời sống kinh tế là cơ sở hình thành đời sống văn hóa
          C Mác viết: “…tiền đề đầu tiên của mọi sự tồn tại của con người, và do đó là tiền đề của mọi lịch sử, đó là: người ta phải có khả năng sống đã rồi mới có thể “làm ra lịch sử”. Nhưng muốn sống được thì trước hết cần phải có thức ăn, thức uống, nhà ở, quần áo và một vài thứ khác nữa. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên là việc sản xuất ra những tư liệu để thỏa mãn những nhu cầu ấy, việc sản xuất ra bản thân đời sống vật chất”[1]. Vận dụng sáng tạo tư tưởng của C Mác vào hoàn cảnh cụ thể nước ta, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước…”[2] Cũng vì vậy, có thể khẳng định rằng: con người với tư cách “người”, được bắt đầu bằng tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình.

Giá trị đạo đức trong Di chúc thiêng liêng của chủ tịch Hồ Chí Minh

Toàn văn bản Di chúc của Bác là kết tinh những triết lý nhân sinh hết sức cô đọng, sâu sắc ở nhiều tầng bản chất, có lẽ phải qua nhiều thế hệ kế tiếp mới có thể lý giải thoả đáng. Tuy vậy, bước đầu có thể khẳng định được rằng: Những điều mong muốn cuối cùng của Bác: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”[1] cũng chính là những mục tiêu chiến lược lâu dài của cách mạng nước ta mà Bác di chúc lại cho toàn Đảng, toàn dân ta tiếp tục thực hiện đến thắng lợi hoàn toàn. Để hướng dẫn việc thực hiện thắng lợi những mục tiêu ấy, Bác đã viết bằng cả tâm huyết của mình bản Di chúc thiêng liêng, mà trong đó cái hạt nhân và cũng là cái bản chất nhất là Bác mong muốn toàn Đảng và toàn dân ta, mỗi người, mỗi đảng viên và cán bộ phải nêu gương suốt đời tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng.

Giá trị văn hoá truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” Việt Nam trong hội nhập và phát triển đất nước hiện nay

Hội nhập và phát triển mang trong chúng mỗi quan hê nhân quả chuyển tiếp. Hội nhập để phát triển và trong phát triển có hội nhập. Mối quan hệ nhân nhân – quả quả - nhân nhân… cứ như vậy ấy của hội nhập và phát triển là quy luật chung trong sự vận động tiến lên mãi của mỗi quốc gia dân tộc, của mỗi con người và cả loài người. Vấn đề quan trọng là hội nhập và phát triển như thế nào? Giải quyết vấn đề này phụ thuộc nhiều vào ý nguyện của dân chúng và chính sách của mỗi quốc gia ở mỗi hoàn cảnh lịch sử nhất định. Đối với Việt Nam hiện nay, mong muốn hội nhập, tích cực hội nhập, chủ động hội nhập để phát triển nhưng không muốn “hoà tan”; phấn đấu phát triển đất nước, nhưng không muốn “tự đánh mất mình”; luôn tự hào về sự lớn mạnh của mình chứ không muốn “Bốn nghìn năm ta lại là ta”… Hy vọng bài viết nhỏ này có thể đóng góp chút ít gì đó vào việc thực hiện những mục tiêu có vẻ “khiêm tốn” ấy!

Thứ Hai, 3 tháng 10, 2016

TÌM HIỂU VAI TRÒ CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN VĂN CỪ TRONG CAO TRÀO ĐẤU TRANH CỦA MẶT TRẬN DÂN CHỦ (1936-1939)

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ trở thành đảng viên của Đông Dương cộng sản Đảng vào tháng 6 năm 1929. Đồng chí được Đảng phân công làm cán bộ chuyên môn của Đảng. Đồng chí đã góp nhiều công sức vào việc thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất ở nước ta (1930), vào công tác tuyên truyền và phát triển Đảng, xây dựng và phát triển các tổ chức quần chúng ở vùng mỏ than Đông - Bắc của Tổ quốc. Cuối năm 1930, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt và đầy đi Côn Đảo vào năm 1932. Trong tù, đồng chí đã đấu tranh bất khuất, không khoan nhượng đầu hàng, hơn nữa còn cùng với các đồng chí Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng... hướng dẫn các đồng chí khác học tập văn hoá, lý luận và trao đổi kinh nghiệm đấu tranh - "Biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng". Năm 1936, nhờ phong trào đấu tranh cách mạng mạnh mẽ ở trong nước, nhờ cuộc đấu tranh mạnh mẽ của Mặt trận bình dân Pháp thắng lợi... thực dân Pháp buộc phải thả một số tù chính trị ở nước ta, trong đó có đồng chí Nguyễn Văn Cừ.

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ CỦA ĐẢNG

Cán bộ và công tác cán bộ là mối quan tâm lớn của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Hồ Chí Minh đã dạy: Cán bộ là gốc của cách mạng, là yếu tố quyết định sự thành bại của phong trào và thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam mấy thập kỷ qua đã cho chúng ta thấy rõ như vậy. Vì thế, việc tiếp tục nghiên cứu nắm vững và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của Đảng có ý nghĩa và giá trị thực tiễn sâu sắc đối với Đảng ta không chỉ trong công cuộc đổi mới đất nước trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mà còn mãi mãi về sau.

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

“GIÚP BẠN LÀ TỰ GIÚP MÌNH” - PHƯƠNG TRÂM NGOẠI GIAO CỦA HỒ CHÍ MINH VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Trong lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc. Người viết: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai cấp vô sản ở các nước thuộc địa. Nếu người ta muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả hai vòi”[1]. Người kêu gọi giai cấp công nhân các nước phương Tây phải đẩy mạnh việc ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa. Trong những bài phát biểu tại Đại hội lần thứ V (1924) Quốc tế cộng sản,

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH – GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự là một bộ phận hữu cơ rất quan trọng của Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân sự phản ánh những vấn đề có tính quy luật của bạo lực cách mạng trong đấu tranh để giành và giữ chính quyền, trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh cách mạng, trong việc xây dựng căn cứ địa, hậu phương, đặc biệt là xây dựng các lực lượng vũ trang nhân dân và nền quốc phòng toàn dân…

Thứ Hai, 19 tháng 9, 2016

Độc lập dân tộc - nhìn từ góc độ văn hóa

Một quốc gia dân tộc độc lập với đầy đủ ý nghĩa của nó không chỉ dựa trên nền tảng độc lập chủ quyền lãnh thổ địa lý đã được luật pháp quốc tế và các quốc gia dân tộc khác thừa thận, mà quan trọng hơn, phải dựa trên sự độc lập về văn hóa.

CẦN XIẾT CHẶT KỶ CƯƠNG, THỂ CHẾ

Ngay từ khi bước vào nhiệm kỳ đầu của chính phủ mới, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã nhấn mạnh đến yêu cầu cần xiết chặt kỷ cương hành chính tạo ra và củng cố nhận thức đúng đắn vai trò và chức năng của các cơ quan công quyền trong phục vụ nhân dân.

Chủ Nhật, 11 tháng 9, 2016

CÔNG TÁC CÁN BỘ KHÔNG THỂ “MỘT MÌNH MỘT CHIẾU”

Cán tác cán bộ là mối quan tâm lớn của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Hồ Chí Minh đã dạy: Cán bộ là gốc của cách mạng, là yếu tố quyết định sự thành bại của phong trào và thực tiễn thắng lợi của cách mạng Việt Nam mấy thập kỷ qua đã cho chúng ta thấy rõ như vậy. Vì thế, công tác cán bộ của Đảng có vai tò quan trọng trong việc hình thành nên đội ngũ cán bộ vừa có “đức” vừa có “tài” để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.

Thứ Hai, 5 tháng 9, 2016

GIÁ TRỊ THỰC TIỄN TRONG CÔNG TÁC GIÁO DỤC, RÈN LUYỆN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN CỦA ĐẢNG TA VỀ PHÒNG CHỐNG THAM Ô, LÃNG PHÍ

Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng là bộ phận hợp thành quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh. Nét đặc sắc và nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham nhũng đã và đang được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng vào công tác giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên của đảng ta trong các giai đoạn cách mạng cũng như hiện nay.
Trước hết, Đảng ta đã làm tốt công tác giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên hiểu rõ thế nào là tham ô, lãng phí quan liêu theo tư tưởng Hồ Chí Minh.

Thứ Hai, 13 tháng 6, 2016

Hồ Chí minh và 5 tác phẩm quốc bảo của Người

Hồ Chí Minh là hình ảnh tốt đẹp nhất của dân tộc Việt Nam; trong con người Hồ Chí Minh có một sự kết hợp đến mức hoàn hảo giữa phẩm chất bác ái, nhân từ, khoan dung, độ lượng của Đức Chúa Jessu với lòng từ bi hỷ xả, vô ngã vị tha của Đức Phật, với trí tuệ sáng suốt của Mác, tính quyết liệt cách mạng của Lênin, đầu óc thiết thực của Tôn Trung Sơn và kết tinh tâm hồn dân tộc. Vậy là, dường như những gì tinh hoa, ưu tú nhất của thế giới nhân loại và của dân tộc Việt Nam đã hội tụ vào trí tuệ và tư tưởng, đạo đức và tâm hồn Hồ Chí Minh. Thế giới biết đến Người là một trong số những lãnh tụ hiếm hoi ở thế kỷ XX đã trở thành huyền thoại ngay từ khi còn sống. Với dân tộc Việt Nam, hình ảnh Hồ Chí Minh được khắc họa trong tâm trí thông qua hình ảnh trực giác giản đơn nhưng vô cùng sâu sắc trong hai câu ca dao: Tháp Mười đẹp nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.

Thứ Tư, 8 tháng 6, 2016

Nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội: Một xu hướng không thể cưỡng lại

Nhân loại hướng tới chủ nghĩa xã hội: Một xu hướng không thể cưỡng lại

Nguồn: HVCTQGHCM

GS, TS. GENNADY ZYUGANOV
Phó Chủ tịch Duma Quốc gia Nga (1995-2000), Đại học Quốc gia Matxcơva
Tóm tắt: “Trong tương lai xã hội loài người có còn chủ nghĩa xã hội hay không?” Câu hỏi này thực ra không có gì để tranh luận. Vấn đề là, chủ nghĩa tư bản có kiềm chế lâu dài sự tiến bộ của văn minh nhân loại hay không? Nhân loại sẽ hướng tới chủ nghĩa xã hội - một xu hướng không thể cưỡng lại, nhưng điều này không có nghĩa là ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa phát triển, các điều kiện khách quan để chủ nghĩa tư bản quá độ sang chủ nghĩa xã hội đều đã chín muồi, và sự hình thành của các điều kiện khách quan chỉ là cơ sở vật chất cho việc xây dựng lại xã hội, tương lai phát triển của nó phụ thuộc vào sức sống của quốc gia với tư cách là chủ thể kinh tế - xã hội và những gì chưa sẵn sàng quá độ lên chủ nghĩa xã hội chỉ là các yếu tố chủ quan hoặc nhân tạo. Phương thuốc tốt nhất để chữa trị căn bệnh tinh thần chống chủ nghĩa xã hội, chống chủ nghĩa cộng sản là nghiên cứu kỹ tư tưởng xã hội chủ nghĩa của các nước trên thế giới, và thực tiễn xã hội chủ nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm cả Liên Xô.

Thứ Hai, 6 tháng 6, 2016

TÌM HIỂU TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ TRÍ THỨC


          Trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Trí thức là hiểu biết”. Trong thế giới chỉ có hai thứ hiểu biết: Một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản - Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội - Khoa học xã hội do đó mà ra. Tập hợp những người có trí thức, hoặc là toàn diện, hoặc là về một mặt nào đó một cách sâu sắc và phong phú của hai sự hiểu biết nói trên, được đề cao từ đủ các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, gọi là tầng lớp trí thức - những người chuyên lao động trí óc. Hồ Chí Minh ít nói về trí trức trừu tượng, chung chung. Khi nói về trí thức, bao giờ Người cũng gắn trí thức với những con người cụ thể - người trí thức - tầng lớp trí thức - đội ngũ trí thức, tức là những người hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, vận dụng đưa khoa học vào cuộc sống

Thứ Hai, 30 tháng 5, 2016

CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG MẠNG XÃ HỘI ĐỂ CHỐNG PHÁ




Hiện nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển mạnh mẽ, các phương tiện smart phone ngày càng nhiều kèm theo internet phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống của nhân loại. Bên cạnh những lợi ích mà internet đưa lại thì đây cũng là môi trường thuận lợi để các thế lực thù địch lợi dụng hoạt động chống phá.Và một trong những thủ đoạn phổ biến trong thời gian qua là chúng đã sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền, kích động chống phá, xuyên tạc sự thật.

Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016

DANH NGÔN HAY

"Lao động là vinh quang"

NHỮNG NHÂN TỐ VÀ ĐIỀU KIỆN ĐẶC THÙ TRONG XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM – NHÌN TỪ QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH

Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với con đường lựa chọn chủ nghĩa xã hội, vì thấy rằng chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giải phóng được dân tộc, giải phóng con người. Từ đó, Người kiên trì sự lựa chọn con đường kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là quyết định vô cùng sáng suốt, đã đem lại cho đất nước ta những thắng lợi vẻ vang mà cả nhân loại tiến bộ đều thừa nhận.

Đừng để sự trơ trẽn làm xấu đi hình ảnh của dân tộc ta

Đừng để sự trơ trẽn làm xấu đi hình ảnh của dân tộc ta
Nhân sự kiện Tổng thống Obama sang thăm Việt Nam, một số phần tử cơ hội, đả kích lợi dụng vẫn đề này để bôi nhọ hình ảnh của dân tộc ta. Các bạn thử vào những trang mạng xã hội mà xem, nhiều hình ảnh đã được đăng lên, xuyên tạc sự thật lịch sự

Thứ Sáu, 20 tháng 5, 2016

Kỷ niệm 126 năm ngày sinh nhật Bác (19/5-1890-19/5/2016)


Cần cảnh giác với những luận điệu xuyên tạc chống phá bầu cử Quốc hội khóa XIV và Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021



Đã trở thành thông lệ, cứ mỗi dịp diễn ra sự kiện chính trị lớn của đất nước thì các thế lực thù địch, cơ hội chính trị lại đẩy mạnh tuyên truyền xuyên tạc, chống phá nhằm thực hiện mưu đồ của chúng

PHẢN BIỆN XÃ HỘI HAY SỰ “NÉM ĐÁ HỘI ĐỒNG”



Phản biện xã hội là tất yếu trong đời sống chính trị - xã hội. Ở nước ta, những năm gần đây hoạt động này đã được quan tâm nhiều, nhất là sau khi “phản biện xã hội” được chính thức đưa vào văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X

NGUYỄN ÁI QUỐC VÀ QUỐC TẾ CỘNG SẢN VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Bối cảnh lịch sử ngoài nước và trong nước những năm 30 (30-39) của thế kỷ XX gồm nhiều những sự kiện có ảnh hưởng trực tiếp tới những điểm...